BẠCH DƯƠNG KỲ - Bạch Dương Tu SĩBạch Dương Kỳ 2002

Thánh triết điển phạm ( Tế Công Hoạt Phật )

Tác giả liangfulai on 2022-09-11 21:54:39
/Thánh triết điển phạm  ( Tế Công Hoạt Phật )

Lời nói đầu

 

Phật vì một nhân duyên đại sự mà giáng thế, lấy việc độ hóa chúng sanh làm chí hướng. Bồ tát tại thế tuy có phiền não, nhưng Phật tánh sáng chói rực rỡ, tại trần bất nhiễm; tuy qua lại niết bàn sanh tử, nhưng có thể dĩ huyễn tu huyễn, quyền xảo phương tiện, giáo hóa chúng sanh, đắc chứng bỉ ngạn ( lên được bờ bên kia ).


(dĩ huyễn tu huyễn : dùng ảo giác để khắc phục những ảo giác khác, dùng thân tâm hư ảo để tiến hành tu sửa, trừ diệt những ảo tượng ảo vọng. Nếu như cảnh giới hư vọng chẳng còn nữa, tự nhiên tự tánh bèn hiển lộ, cho nên muốn tìm tự tánh nên xa rời tất cả mọi sự huyễn hóa, cho đến cuối cùng đến cả cái tâm xa rời cũng phải rời khỏi, tâm thanh tịnh rồi thì năng lượng đủ rồi, đợi năng lượng đủ rồi thì tự nhiên đốn ngộ )

 

I. Giới thiệu về sự tích cuộc đời của Tế Công Hoạt Phật đời Tống:

1. Nhân duyên giáng thế

 

Người đời tu hành chỉ biết tam muội trong cái tĩnh, nhưng lại chẳng biết mùi vị và cái diệu trong cái động. Tế Công Hoạt Phật của đời Tống là La Hán Hàng Long hoạt bát tự tại giáng thế, rộng tu nhân duyên đại sự mạt hậu trong ngũ trọc ác thế, hoạt bát tự tại để xiển minh phật pháp, thánh tích du hóa nhân gian 50 năm, thị hiện mùi vị của thiền trong cái động, khiến cho những người đời sau cực kì đảm ngưỡng và khâm phục ngưỡng mộ.

 

2. La Hán giáng thế

 

Tại huyện Thiên Đài của tỉnh Chiết giang, có một vị quan họ tên là Mậu Xuân, vẻ ngoài đoan trang đôn hậu, lại cẩn thận tự ái, chẳng tham mọi danh lợi, tuy rằng đã làm quan nhiều năm, bổn tánh trong sáng, cho nên cứ cảm thấy chẳng có hứng thú gì đối với việc làm quan, do vậy mà từ quan thoái chức về nhà ẩn cư. Người vợ đầu của ông ta là Vương phu nhân, là một người vô cùng thích hành thiện bố thí, thế nhưng họ kết hôn trải qua những tháng ngày triền miên 30 năm ròng mà chẳng sanh được một bé trai, do vậy mà ngày đêm nhìn trời than thở, tuy rằng như thế nhưng mà Lí Viên Ngoại là người dựa vào cái đạo phu thê, chẳng chịu nạp thiếp để sinh con trai nối dõi tông đường. Hai vợ chồng ngày đêm cầu thần bái phật, hy vọng có thể có được đứa con trai để kế tục hương hỏa. Do sự thành tâm cầu nguyện đã làm cảm động sự từ bi của La Hán. Có một đêm nọ, Vương phu nhân nằm mơ thấy một người sắc vàng tía cầm một đóa hoa sen năm sắc màu đem tặng cho bà, bà chẳng chút ngần ngừ do dự, tiếp lấy đóa sen 5 màu xinh đẹp này, một hơi liền thì nuốt xuống bụng rồi, từ lúc ấy Vương Phu Nhân bèn mang thai, ngày tháng trôi qua, đến ngày lâm bồn chính là ngày mồng 8 tháng 12 năm Tống Quang Tông Nguyên, Vương phu nhân sanh ra một bé trai mặt như trăng tròn, diện mạo thanh tú. Vào khoảnh khắc đứa bé trai giáng sanh, mùi thơm tràn ngập nhà, khắp nhà đầy ánh hồng quang. Lí Viên Ngoại về già được quý tử này, vội vàng thắp nhang đốt nến cảm tạ sự phù hộ của Phật Bồ Tát.

 

3. Đầy tháng Cao Tăng đến chúc mừng

 

Vào đúng lúc đứa bé đầy tháng, Tánh Không Trưởng Lão của chùa Quốc Thanh ở Thiên Đài Sơn đến Lí Phủ đặc biệt để đặt tên Tu Duyên hai chữ cho công tử, ngụ ý là bảo cậu ta rộng tu một nhân duyên đại sự của việc mạt hậu tam tào phổ độ. Trưởng Lão rờ lấy đầu của đứa bé và nói : “ Thánh Phàm là cách nhau trời vực, nếu đã đến thì tốt rồi, nhưng không được đi sai đường ”. Đứa bé dường như hiểu được lời của Lão Hòa Thượng mà hiện ra sự mỉm cười. Trưởng Lão lại vỗ nó hai cái, lớn tiếng khen ngợi rằng : “ chớ có cười ! chớ có cười ! chuyện của mi ta biết rõ, thấy ta tĩnh tu không quan trọng, con phải hoạt bát nhảy trong động. Nhảy thì nhảy, không được mê mất khiếu trong tĩnh. Sắc sẽ thiêu đốt thân, nóng giận sẽ cải đạo, tiền tài chỉ hợp giúp tu tạo, nếu lo lạnh chết Tu Bồ Đề, rượu vàng sôi sục thật sự diệu. Mi đến ta đi hai rõ ràng, cẩn thận chớ để mọi người tùy tiện nhờ bậy ”. Tánh Không Trưởng Lão điểm rõ nhân duyên của đứa bé này rồi thì cũng bàn giao dặn dò với phụ mẫu của cậu bé. Sau đó Tánh Không Trưởng Lão lúc viên tịch đặc biệt dặn dò Lí Viên Ngoại rằng sau này Tu Duyên xuất gia có thể bái Viễn Hạt Đường Trưởng Lão của chùa Linh Ẩn làm thầy.

 

4. Thời niên thiếu thông minh xuất chúng, trí tuệ của tiền kiếp

 

Tu Duyên vào lúc 8 tuổi, Phụ Mẫu của cậu mời gia sư chuyên tâm phụ trách dạy bảo cậu  và anh họ của cậu là Vương Toàn. Tu Duyên vào khoảng thời gian học hành này, cá tánh khác người, lúc cậu vui thì lớn tiếng chẳng ngừng học từ sáng đến tối, nhưng lúc biếng học thì cả ngày lặng lẽ không mở miệng mà ngồi một mình, tự mình nhìn đăm đăm đang si tưởng điều gì, lúc nghĩ vui vẻ thì mặt hướng lên trời, cười ha ha một trận, nếu có người hỏi cậu cười cái gì thì trái lại che giấu chẳng nói một lời nào.

 

Đến cái năm cậu 12 tuổi thì đã đọc thuộc Tứ Thư Ngũ Kinh, Chư Tử Bách Gia, chẳng những tinh thông văn lí mà còn ngâm thơ sáng tác, cái nào cũng tinh thông. Một ngày trước tiết thanh minh, cậu và anh họ là Vương Toàn tiễn gia sư về nhà nghỉ lễ, giữa đường về ngang qua chùa Kì Viên, vào chùa tham quan, gặp một vị quan đã thỉnh một tờ độ điệp muốn thế độ một vị tiểu tăng, do Tiểu Tăng rất đông nên khó mà tuyển chọn, cho nên ông đã làm một bài thơ, muốn họ dùng hai câu mà bao quát nội dung trong đó. Các tiểu tăng đều đang dụng tâm suy nghĩ, còn Tu Duyên sau khi xem bài thơ gốc rồi thì nhanh chóng cầm bút lên viết xuống hai câu : “ tịnh nhãn khán lai tam giới, tổng thị nhất chuyên mao ốc. ” ( tạm dịch : tĩnh mắt nhìn đến tam giới, vẫn là một mái nhà tranh – túp nhà lều ), do vậy làm kinh đảo trụ trì của chùa Kì Viên là Đạo Thanh Lão Hòa Thượng.

 

5. Ba sự kiện lớn :

 

Đạo Thanh Trưởng Lão đến nhà của Lí Viên Ngoại để độ hóa Lí Tu Duyên, Tu Duyên nói rằng : “ con còn 3 việc lớn chưa làm xong, cho nên khó mà tiếp nạp ý đẹp của Trưởng Lão ”. Ba sự việc lớn này là :

 

1. Là xưa nay chẳng có một vị cao tăng đần độn, cho nên con vẫn rất ấu trĩ và lại đọc sách chẳng nhiều, nào dám vọng tưởng làm ô nhục sự tinh vi của thượng thừa.

2. Giữa thiên hạ chẳng có vị Phật Bồ Tát bất hiếu, huống hồ phụ mẫu của con còn sống, trên chẳng có anh trai, dưới chẳng có em trai có thể phụng dưỡng phụ mẫu, nào dám bỏ mặc phụ mẫu chẳng thèm lo mà đi xuất gia.

3. Xuất gia truyền đăng nhất định phải có cao tăng ma đính, hiện nay tự viện đạo trường phật đường tuy nhiều, nhưng lại ít có đại thiện tri thức có ma đính, cho nên con chẳng dám mạo nhiên ( hấp tấp thiếu suy nghĩ ) mà xuất gia.

 

Đạo Thanh Trưởng Lão nhận thấy rằng điều thứ nhất và thứ hai, Tu Duyên đều đã có đầy đủ, còn về điều thứ 3 thì Trưởng Lão có thể đảm được, do vậy Tu Duyên bèn hỏi : “ Lão Sư Phụ thân này trụ tại thế gian đã có bao nhiêu năm rồi ? ” Đạo Thanh Trưởng Lão trả lời rằng : “ Lão tăng trụ thế đã có hơn 62 năm ”. Tu Duyên hỏi rằng : “ thân này nếu đã trụ thế hơn 62 năm, vậy thì một điểm linh quang trong thân này là trụ ở chỗ nào ? ”, hỏi câu này một cái đã khiến Đạo Thanh Trưởng Lão chẳng cách nào trả lời.

 

6. Xuất gia

 

Thời gian qua mau, tháng ngày như tên bắn, chuyển mắt một cái Tu Duyên đã đến tuổi 18 rồi, phụ mẫu đang vì chuyện chung thân đại sự của cậu mà nhờ người tìm kiếm cô nương tốt, nào ngờ thượng thiên lại chẳng trợ giúp, còn khiến cho Vương phu nhân nhiễm bệnh, bệnh một cái rồi thì lại chẳng thể dậy khỏi giường, chẳng đến mấy hôm thì tạm biệt mãi mãi với cuộc đời, phụ thân kế đó cũng từ biệt mãi mãi với đời. Sự vô thường của đời người khiến cho cậu cảm ngộ sự trôi qua nhanh chóng của thời gian, sanh tử đại sự chẳng thể xem nhẹ, do đó bèn đến chùa Linh Ẩn của Hàng Châu Tây Hồ bái Viễn Hạt Đường Trưởng Lão xuất gia. Trưởng Lão nhìn lai lịch của Tu Duyên một cái, biết rằng đây là một đại sự nhân duyên, do vậy muốn cậu trước tiên đến thiền đường học tập ngồi xếp bằng, nào ngờ Đạo Tế chẳng quen với phương thức ngồi xếp bằng, giữa một đêm mà ngã rớt mấy lần, trên đầu sưng u lên bốn, năm cục, tâm nghĩ rằng nếu đã tiến vào cửa phật rồi, thật ngại mà hối hận quyết định khi xưa, chỉ còn cách thật tốt mà nhẫn chịu tiếp, lại khổ chịu đựng hai ngày, rốt cuộc vẫn cảm thấy trong cửa phật thật là khổ não vạn nghìn, chẳng có một chút ý nghĩa, do vậy cậu nghĩ rằng : “ mục đích xuất gia của ta là chỉ mong có thể minh tâm kiến tánh mà có chỗ hiểu thể nghiệm đối với phật pháp, thế nhưng bây giờ lại giống như người chết chỉ ngồi trong sự điếc nghe mù nhìn, đấy có khác gì với những bức tượng đất gỗ thạch cao ? ”, do vậy quyết định bái từ phương trượng chuẩn bị về nhà.

 

7. Khai ngộ

 

Viễn Hạt Đường Trưởng Lão ở Phương Trượng Thất đã biết tình trạng của Đạo Tế. Khi cậu ta đến phương trượng thất, Viễn Hạt Đường Trưởng Lão bảo cậu đến gần một chút, bèn tát một cái vào “ diện môn ” ( mặt ) , đánh đến nỗi cậu ngã lăn quay, và lại lớn tiếng hét rằng : “ xuất xứ nguồn gốc chỗ đến từ đâu của mình còn chẳng ngộ, trái lại lại hướng Lão Tăng mà tìm đường đi, một chưởng này đánh con lãng trí hay quên. ”

 

Một cú đánh này lại đánh cậu ta khai ngộ rồi. Đạo Tế dần nhớ lại được nhân duyên tiền kiếp của bản thân mình, do vậy trong tâm khảm của cậu đã ngạc nhiên thoát đi hạ căn tánh mà thêm lên “ thượng căn trí ”. Trưởng Lão đã biết Đạo Tế đã ngộ cái nhân trước, cách một ngày hôm sau thì triệu tập mọi người trong chùa, lớn tiếng ngâm rằng : “ tác dạ tam canh nhãn tinh minh, hữu nhân tất đắc điểm đầu đăng, mạch nhiên tưởng khởi đương niên sự, đại đạo phương bả nhất thản bình ”. ( tạm dịch : canh ba đêm qua mắt tinh minh, có người biết được điểm đầu đăng, đột nhiên nhớ lại chuyện năm xưa, đại đạo mới đem một san bằng ” ) ( 昨夜三更眼精明,有人悉得點頭登,驀然想起當年事, 大道方把一坦平 ). Lúc Trưởng Lão triệu tập mọi người trong chùa, Đạo Tế đang tắm gội ở phòng tắm, nghe tiếng chuông gõ vang một cái, biết rằng là pháp đường triệu tập mọi người, vội vàng mặc buộc lại y phục, đến pháp đường. Trưởng Lão hỏi rằng người nào ngộ khởi cái nhân trước thì xin mời triển lộ ra một cái, Đạo Tế tại chỗ ngay lúc đó chống đầu xuống đất, hai chân hướng lên trời, đột nhiên lộn nhào một cái, đại chúng chẳng hiểu, chỉ có Trưởng Lão trái lại lại vui vẻ nói rằng : “ thật là tài năng trụ cột có thể gánh vác trọng trách đại nhiệm của cửa phật. Thật là tài năng trụ cột có thể gánh vác trọng trách đại nhiệm của cửa phật.”

 

 

8. Giả điên giả khờ, tế thế cứu nhân :

 

Đạo Tế vì muốn ẩn giấu bổn tướng, hòa đồng với mọi người, nhất cử nhất động của cậu đều mang theo vài phần tư thái điên cuồng say xỉn, có lúc thì dẫn theo một đám trẻ chơi trò chơi ở chùa Lãnh Tuyền, có lúc lại đến động Hô Viên gọi ra một đám khỉ, lộn nhào với đám khỉ ở cửa động, có lúc tự mình du sơn ngoạn thủy, cất cao giọng hát bài ca núi rừng, có lúc thì kết duyên với mọi người ở đường lớn hẻm nhỏ, giày rách, nón rách rồi, cà sa trên người cũng rách rồi, nhưng mang lấy một phần tâm trường từ bi tế thế cứu nhân, ở đâu bất bình thì ở đó có vết tích của cậu, từ đấy mọi người đều gọi cậu là Tế Công Hoạt Phật.

 

Có một người vì tìm kiếm con gái của mình, tìm khắp chẳng thấy, trong lòng vô cùng đau khổ thất vọng, chuẩn bị treo cổ tự sát, Tế Công Hoạt Phật khuyến hóa bằng mọi cách, lại dùng phật lực giúp đỡ người này tìm kiếm đứa con gái, cha con đoàn tụ, ấm áp sum vầy.

 

Lại có một lần, Tế Công Hoạt Phật ngang qua một thôn trang, đúng lúc có người kết hôn lấy vợ, toàn thôn đang chúc tụng, thế nhưng Tế Công Hoạt Phật biết rằng ngọn núi bên cạnh thôn trang sắp đổ sập, chỗ nào cũng ẩn giấu nguy hiểm. Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, Tế Công Hoạt Phật cướp lấy cô dâu, lại cõng lấy cô dâu mà chạy, toàn bộ mọi người trong thôn bị “ Tăng điên ” đột nhiên đến ngoài ý muốn chọc giận, mọi người chạy đuổi theo Tế Công Hoạt Phật, cứ mãi đuổi theo đến bên ngoài thôn trang. Tế Công Hoạt Phật thấy mọi người đã chạy thoát khỏi chỗ nguy hiểm thì ngừng lại chẳng động đậy, bảo mọi người quay đầu lại xem, ngọn núi sụp đổ đè bẹp thôn trang rồi. Nếu Tế Công Hoạt Phật không kịp thời đúng lúc chọc ghẹo mọi người đuổi theo thì tánh mệnh người dân của toàn thôn đã không bảo toàn, người dân trong thôn nhìn thấy một màn kinh tâm động hồn này, mọi người đều toát mồ hôi lạnh, cũng hiểu được hoạt phật tại thế cứu người thoát khỏi nguy hiểm.

 

Tế Công Hoạt Phật cũng rất quen thuộc với một số quan lại triều đình, bởi vì sự thần diệu của Tế Công Hoạt Phật, giữa các quan lại triều đình mọi người truyền tai nhau. Có một vị quan lại triều đình tên là Trầm Ngũ Quan quen biết với Tế Công Hoạt Phật. Có một lần ông ta mời Tế Công Hoạt Phật đi uống rượu, sau khi say rượu, Trầm Ngũ Quan muốn thử định lực của Tế Công Hoạt Phật, kiếm một vị cô nương để ả cùng ở bên cạnh. Tế Công Hoạt Phật tuy say rượu nhưng tâm đầu định, bất động như núi, ngủ một mình trên chiếc giường đá, còn vị cô nương ấy tự mình cũng ngủ rồi. Sang sáng hôm sau, Trầm Ngũ Quan muốn biết được chân tướng của Tế Công Hoạt Phật, nghe vị cô nương ấy nhắc đến thì khâm phục sâu tận đáy lòng rằng : “ đạo cao long hổ phục ( khuất phục ), đức trọng quỷ thần khâm, thật chẳng hổ thẹn là một người xuất gia, chẳng trách 16 quan lại triều đình đều tôn kính ngài ”, thật là nhìn thấu thì vạn chẳng tồn một, nhìn không thấu thì một diễn thành vạn.

 

Những sự tích của Tế Công Hoạt Phật du hóa nhân gian thì rất nhiều, vô cùng đặc sắc kỳ diệu, vì muốn hóa duyên thay cho chùa Tịnh Từ, thị hiện La Hán tía vàng, làm kinh động thái hậu bố thí 3000 ngân lượng. Một trận hỏa hoạn đã hủy chùa Tịnh Từ, vì muốn giúp đỡ chùa Tịnh Từ xây dựng lại công trình, Tế Công Hoạt Phật vận khởi sinh hóa diệu bút, rung động lòng người, thượng khấu cửu khuyết ( thiên cung ), gọi thông thiên nhĩ, đến Hoàng Đế đều phát tâm quyên trợ ba vạn ngân lượng hoàn thành nhân duyên thù thắng; Tế Công Hoạt Phật vận thần thông, hóa các cây gỗ, xây dựng lại đạo tràng trang nghiêm chùa Tịnh Từ.

 

Du hý thần thông năm mươi mấy năm, từ Tây Hồ cảnh đẹp và một vùng lưu vực thái hồ của Giang Nam đều truyền tụng những dị tích của Tế Công Hoạt Phật, mấy chục năm trời khuyến hóa nhân tâm, trừ ma hàng yêu, cứu vãn chánh khí của đất trời không sụp đổ, lập cang thường của nhân gian không đọa lạc. Tế Công Hoạt Phật của đời Tống có thể nói là nhà nhà đều biết, truyền lại thành những giai thoại thiên cổ.

 

 

9. Đảo trang giáng thế 72 kiếp :

 

Tế Công Hoạt Phật vì muốn ở nhân gian tiếp tục cứu khổ cứu nạn, chẳng luyến quả vị tiên thiên, đảo giá từ hàng, giáng thế 72 lần tại nhân gian, quảng độ hữu tình, tùy duyên độ hóa, cho nên rất nhiều vị Tiền Hiền của chúng ta trong những kiếp trước từng là những thân bằng, quyến thuộc, đệ tử của Tế Công Hoạt Phật; trong lần phổ độ Tam Tào này, bái lạy dưới cửa của Hoạt Phật là do trong lũy kiếp đã từng thân cận với Tế Công Hoạt Phật, do vậy, duyên phận với Tế Công Hoạt Phật kiếp này càng cảm thấy thù thắng hơn.

 

10. Một đại sự nhân duyên Tam Tào Phổ Độ đời Tổ thứ 18 :

 

Thượng thiên đại khai long ân, chỉ điểm cho những con cừu non lạc đường trở về Lý Thiên, Tế Công Hoạt Phật ứng vận giáng thế là Cung Trường Tổ Sư, cùng sư mẫu Nguyệt Tuệ Bồ Tát Tử Hệ Tổ đồng lãnh thiên mệnh phổ độ Tam Tào. Dân Quốc năm thứ 19 trong lò bát quái bắt đầu một đại sự nhân duyên thù thắng này, thế nhưng trời vô tướng, đất vô hình, nhờ vào sự bày tỏ biểu lộ của con người, chúng ta hiểu nhận thức được tên thánh của một đời Minh Sư, thông qua tiểu thuyết Tế Công Truyền, sự thông tục hóa của phim truyền hình, điện ảnh, kịch múa rối và tuồng cải lương, diễn sống Thánh tích một đời của Tế Công Hoạt Phật, để lại ấn tượng sấu sắc trong tâm khảm của chúng sinh, cũng khiến cho chúng ta lại một lần nữa thể ngộ và cảm giác thân thiết với từ tâm bi nguyện của một đời Minh Sư.

 

Số lượt xem : 1534