BẠCH DƯƠNG KỲ - Bạch Dương Tu SĩBạch Dương Kỳ 2002

Sự Thù Thắng Của Nghi Thức Truyền Đạo

Tác giả liangfulai on 2022-10-03 19:51:25
/Sự Thù Thắng  Của Nghi Thức Truyền Đạo

Thân là đệ tử Nhất Quán Đạo thì phải thể hội nhận thức sâu sắc sự tôn quý và nhân duyên thù thắng của nghi thức truyền đạo.


 

  1. Đốn pháp thượng thừa lìa các pháp tướng.
  2. Ghi danh cầu đạo trị liệu căn bệnh ( tâm ) lâu ngày khó chữa.
  3. Điểm thắp phật đèn quang minh tự tánh.
  4. Nghi lễ hiến cúng trang nghiêm thần thánh.
  5. Nghi thức thỉnh đàn Long Thiên hộ pháp.
  6. Mạt hậu nhất trước vạn Phật trợ đạo.
  7. Biểu văn trình tấu thiên bảng ghi danh.
  8. Dẫn Bảo đương nguyện phá tà hiển chánh.
  9. Nguyện văn cầu đạo – bậc thang tu hành.
  10. Chân ngôn Lễ Chúc – mật nhân thành đạo.
  11. Tam Bảo Chân Truyền minh tâm kiến tánh.
  12. Chuyển thức thành Trí, siêu phàm nhập Thánh.

 

 

Trong toàn bộ nghi thức cầu đạo từ đầu cho đến cuối đều là sự Nhất QuánTừ lúc bắt đầu thắp Phật đèn mãi cho đến khi tiễn Phật đăng, quá trình đầu cuối này tràn đầy thiên cơ và sự huyền bí sâu xa, tràn đầy thiền cơ và những thông tin vi diệu của Người Trời hợp nhất. Nghi thức cầu đạo của Nhất Quán Đạo là đem quá trình tu đạo dài dằng dặc của Thiền Môn cô đọng lại trong hơn một tiếng đồng hồ khiến cho người cầu đạo mới từ chỗ tâm tán loạn đi dần đến chuyên tâm, từ chuyên tâm đến nhất tâm, nhất tâm lại trực hạ vô tâm.

 

Nhất Quán Đạo trên mặt nghi qũy bàn đạo có những lời Lễ Chúc ( dặn dò ) thống nhất đối với người cầu đạo, là bảo với người cầu đạo ý nghĩa sâu sắc của việc tu đạo, sau đó là điểm quan trọng và phương pháp tu đạo. Người cầu đạo nếu như hiểu được ý nghĩa bên trong đó và chiếu theo đó mà tu hành thì có thể tu thành đạo siêu sanh liễu tử.

 

 

Lời điểm đạo là nói về cái đạo của Tánh, có thể gọi là “ Kinh ”. Giáo nghĩa bảo quý như thế nếu như không giảng giải không nói rõ ràng, vậy thì không chỉ là Mạt Hậu Nhất Trước xưa kia chưa từng nói, mà còn là Mạt Hậu Nhất Trước nay cũng chưa từng nói. Những lời của Thiên Nhơn nếu chẳng nói bàn, vậy thì Thiên Đạo Nhất Quán làm sao có thể mở rộng thực hành đến các đại bộ châu của thế giới đây ? Nếu như đem những lời điểm đạo xem như là điều rất thần bí bảo rằng những người dưới cấp Điểm Truyền Sư thì không thể nghiên cứu học tập, vậy thì lúc bàn đạo đọc những lời này để làm gì, có ích gì ? là đọc cho Tiên Phật nghe đó sao ? Tiên Phật đến chỉ là giúp đỡ trợ đạo hộ trì pháp đàn, Điểm Truyền Sư đại biểu thay mặt cho Thiên Mệnh Minh Sư điểm huyền truyền thụ khẩu quyết chân kinh và hợp đồng. Nhất Quán Đạo có tam bảo và nghi thức bàn đạo đương nhiên không thể nói, còn trong những lời điểm đạo thì ngoại trừ huyền quan và chân kinh, hợp đồng là không thể nói ra, thì những lời phó chúc dặn dò khác đều nên nói.

 

 

Chơn ý nội hàm của lời Thân Thỉnh : trong Lễ Chúc nói rằng : 『末後一著昔未言。明人在此訴一番。愚夫識得還鄉道。生來死去見當前。今有欽加頂恩 孫慧明率眾虔心跪在 明明上帝蓮下又申請三期應運彌勒古佛三千弟子諸般星宿到此運際同助三佛普收蘊數末後大事明白通報情』。

” Mạt hậu nhất trước tích vị ngôn. Minh Nhân tại thử tố nhất phiên. Ngu phu thức đắc hoàn hương đạo. Sanh lai tử khứ kiến đương tiền. Kim hữu khâm gia đính ân, Tôn Huệ Minh suất chúng kiền tâm quỳ tại Minh Minh Thượng Đế liên hạ, hựu thân thỉnh tam kì ứng vận, Di Lặc Cổ Phật, tam thiên đệ tử chư ban tinh tú đáo thử vận tế, đồng trợ tam Phật, phổ thu uẩn số, mạt hậu đại sự minh bạch thông báo Mẫu tình. ” .

 

 

Trong quá trình thỉnh đàn Điểm Truyền Sư sẽ cung kính quỳ đọc những lời Thân Thỉnh. Lời thân thỉnh là lời tuyên thuyết của Sư Tôn Sư Mẫu hướng về Lão Mẫu.

 

 “ Mạt Hậu Nhất Trước tích vị ngôn ” trong đó là chỉ lần phổ độ thâu viên này là việc mà quá khứ Chư Phật Chư Tổ trước kia chưa từng nói qua. Duy chỉ có nay gặp tam kì mạt kiếp mới có thể gặp được Minh Sư truyền cho diệu đạo trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật này. Nay gặp được kì phổ độ lần cuối đấy là kiếp này tu kiếp này thành chớ không giống như quá khứ đơn truyền độc thụ cần phải luỹ kiếp tu tích cho đến sau khi công viên quả mãn ông trời mới phái Minh Sư chỉ điểm thọ kí cho.

 

 

Từ Dân Quốc năm thứ 19 ( năm 1930 ) Sư Tôn Sư Mẫu đồng lãnh thiên mệnh phổ độ Tam Tào, bắt đầu Chư Thiên Tiên Phật âm thần giúp đỡ trợ đạo mở lớn cửa hiển hoá, tiếp dẫn những người hữu duyên lên bờ giải thoát. Chỉ trong thời gian ngắn bảy mươi mấy năm, đại đạo phổ truyền khắp các giai cấp tầng lớp xã hội khắp trên toàn thế giới. Đấy là tình hình trạng thái đại quy mô lớn lao từ xưa đến nay chưa từng có mà nay đã ấn chứng cho tính chân thật của cuộc phổ độ thâu viên. Minh Sư ứng vận liễu sứ mệnh này phụng thiên thừa vận gánh vác lên tuệ mệnh của chúng sanh.

 

 

“ Minh Nhân tại thử tố nhất phiên ”. “ Minh Nhân ” ở đây là chỉ Sư Tôn Sư Mẫu.

“ tại thử ” là chỉ tại Phật đường lúc bàn đạo.

“ tố nhất phiên ” là nói một lần.

Nói gì đây ? Từ lúc Sư Tôn Sư Mẫu phụng mệnh chấp chưởng đạo bàn, bàn lí việc Tam Tào Đại Sự Thâu Viên cho đến nay, người người đều có cơ duyên gặp thụ chân truyền, và cũng bởi vì người người đắc đạo chân tu cho đến tề gia trị quốc bình thiên hạ, chân đạo vận hành mới có thể vạn dân an định thái bình. Kế đến là sự đốn ngộ “ sanh lai tử khứ kiến đương tiền ” ( sanh đến chết đi thấy ngay trước mắt ).

 

 

“ Ngu phu thức đắc hoàn hương đạo. Sanh lai tử khứ kiến đương tiền ”.

“ Ngu phu ” là chỉ những chúng sanh mê muội sở dĩ phiền não luân hồi sanh tử là bởi vì chúng sanh bị trói buộc bởi tâm niệm sanh rồi lại diệt diệt rồi lại sanh vậy nên chẳng được giải thoát. Mạt Hậu Nhất Trước ơn trên đại khai ân điển truyền cho sự minh tâm kiến tánh ngay lúc ấy, bỗng chốc chợt cắt đứt hạt giống luân hồi, được biết chỗ ngừng, chợt đại ngộ, hiểu thấu giữa sự sanh đến chết đi chẳng qua là niệm đầu che lấp, sự sanh diệt của tâm mà thôi, vậy nên một chỉ của Minh Sư là nhân duyên thù thắng khiến cho người cầu đạo ngay lúc ấy chợt ngộ bổn lai diện mục đắc được sự đại tự tại.

Cái mà Người của Thiên Đạo nói thuật một lần ở đây bảo với chúng ta là việc của Mạt Hậu Nhất Trước và phương pháp làm thế nào để quay trở về Mạt Hậu Nhất Trước. Ở đây bảo với chúng ta về việc nơi nhân đạo mà nói thì là Tánh của con người, sanh đến từ nơi nào, lúc thân người chết đi thì Tánh lại đi từ đâu về đâu, hoặc còn có thể nói là việc siêu sanh liễu tử.  

 

“ Hựu thân thỉnh Tam Kì ứng vận Di Lặc Cổ Phật ”. Phật Di Lặc từ lâu xa đến nay thì đã tu “ Từ Tâm Tam Muội ” , quang trạch từ bi của ngài phổ bị Tam Tào. Đến nay nhân duyên đã chín muồi thành tựu một đại sự nhân duyên vị lai : Bạt nhiếp chúng sanh vãng sanh Di Lặc Tịnh Độ. Hai là nhân gian tịnh độ thế giới đại đồng của 10800 năm. Ba là sự phổ độ quần sanh của Long Hoa Tam Hội cùng chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nay chúng ta may mắn gặp được thời cơ tốt này được truyền thụ cho tam bảo tâm pháp của Sư Tôn Sư Mẫu, càng có thể tu trì Lục Độ Ba La Mật, hành thập thiện, lập nguyện liễu nguyện dưới sự gia bị của đại nguyện từ bi vĩ đại của Di Lặc Tổ Sư. Lúc lâm chung tất được vãng sanh Di Lặc Tịnh Độ, lại tiến thêm bước tu học mà gặp Phật nghe pháp, chứng quả, quay trở về cõi Vô Cực Lí Thiên, chính là nhân duyên thù thắng của Di Lặc Cổ Phật ứng vận.

 

 

“ Tam Thiên Đệ Tử chư ban tinh tú đáo thử vận tế đồng trợ Tam Phật phổ thâu uẩn số mạt hậu đại sự minh bạch, đồng báo Mẫu tình ” . Tam Thiên Đệ Tử trong đó là bao gồm Chư Thiên Thần Thánh và những đệ tử trong tam thiên đại thiên thế giới đã thành đạo của Thánh Nhân ngũ giáo. Vạn Tiên Bồ Tát đều phải lâm đàn trợ hoá giúp đỡ trợ đạo để trợ những chúng sanh hữu duyên sớm ngày chợt tỉnh, đã nhanh lại càng thêm nhanh siêng tu công quả để chuẩn bị cho Long Hoa Tam Hội có thể án công định quả, mỗi mỗi tự quay trở về bổn vị. Từ xưa người tu đạo lúc viên tịch muốn đạt đến toạ hoá ( đoan toạ kiết già, an nhiên qua đời ) để chứng công hạnh viên mãn là việc rất khó khăn. Thế nhưng mà trong lúc Tam Kì vận tế của Mạt Hậu Nhất Trước, bởi vì được Minh Sư lãnh thiên mệnh điểm mở huyền quan khiếu, chỉ cần không phản đạo bại đức thì trăm tuổi về sau chắc chắn có thể sắc mặt như sống, mùa đông xác không đông cứng, mùa hè không thối rữa, thân mềm mại như bông, thậm chí còn có hương thơm lạ phảng phất khắp phòng. Tướng cát tường như thế đã ấn chứng cho sự đáng quý của đạo thật, lí thật, thiên mệnh thật và tính chân thật của cuộc phổ độ thâu viên Mạt Hậu Nhất Trước.

 

Lễ Chúc chia làm 3 đoạn :

Đoạn thứ nhất chỉ rõ nguyên do của việc phổ độ, nguyên nhân của việc giáng đạo, sự truyền thừa của đạo thống và quá trình của cuộc phổ độ thâu viên.

Đoạn thứ hai nhất mạnh tầm quan trọng của việc lập nguyện liễu nguyện.

Đoạn thứ ba là nghi thức điểm Huyền Quan quan trọng nhất. Còn nhớ trước lúc đọc Lễ Chúc, Thượng Chấp Lễ trước hết sẽ mời người cầu đạo bình tâm tĩnh khí mắt nhìn Phật đèn rồi mới mời người cầu đạo quỳ nghe Lễ Chúc hay không ? Chúng ta xem xem lời Lễ Chúc hàm chứa ý nghĩa gì đây ?

 

Lễ Chúc dành cho Càn Đạo rằng : 『大千收束二八年。至今已整二九盤。三六盤式已填起。祇剩蘊子和靈殘。清虛大化開會此年。蒼生白首共沾恩典一切諸神護庇臨壇』。『此時正在重陽天。大千蘊等俱朝前。各個皆得還鄉道。保你無恙萬八年。余今領受恩師命傳你本來真玄關』。

“ Đại thiên thu thúc nhị bát niên, chí kim dĩ chỉnh nhị cửu bàn, tam lục bàn thức dĩ điền khởi, chỉ dư Uẩn Tử dự Linh Tàn. Thanh hư đại hoá khai hội thử niên. Thương sanh bạch thủ cộng triêm ân điển, nhất thiết Chư Thần hộ tị lâm đàn ”

“ Thử thời chánh tại trùng dương thiên, đại thiên vận đẳng câu triều tiền, các cá thủ đắc hoàn hương đạo, bảo nễ vô dạng vạn bát niên, dư kim lãnh thụ ân sư mệnh, truyền nễ bổn lai chân huyền quan. ”

 

 

 

 

Ý trong đó là nói : Đại thiên thế giới vận số đã đến hồi kết mà tiến vào tiểu nguyên của một Nguyên Hội. Độ số theo hà đồ, lạc thư của Khôn là 2, của Cấn là 8. Vậy nên nói Đại thiên thâu thúc nhị bát niên là dùng 12 Tích Quái của Quy Tàng DịchNhị Bát này cũng là chỉ sự bắt đầu của Tổ Sư Lưu Thanh Hư đời thứ 16, nói ví cho kì Bạch Dương Phổ Độ của Thu Thâu ( mùa thu gặt hái ) .

 

 

Nhị cửu bàn ( 2x9 ) là chỉ Tổ Sư đời thứ 18 Sư Tôn Trương Thiên Nhiên, từ Phục Hi truyền cho đến Mạnh Tử là 18 đời Tổ Tiền Đông Phương. Phật Thích Ca truyền cho đến Đạt Ma là 28 đời Tổ Tây Phương. Từ Đạt Ma Sơ Tổ cho đến Sư Tôn Sư Mẫu là 18 đời Tổ Hậu Đông Phương. Ba giai đoạn tính gọp lại là số quẻ của 64 quẻ viên mãn. Từ nguyên hội này về sau sẽ chẳng còn Tổ Sư nào khác xuất thế nữa.

 

Còn về Tam Lục Bàn Thức là 36 cung của Quẻ Dịch. Quẻ Dịch chia làm các vạch đường trên dưới mỗi cái ở 18 cung. Ba mươi sáu cung mà Thiệu Khang Tiết đã nói là Xuân tức là tam thập lục bàn.

 

 

 

Chí kim dĩ chỉnh nhị cửu bàn là nói 18 quẻ vạch đường trên Vận đã đi xong cả rồi, kế đến thì là vận 18 quẻ của vạch đường dưới bắt đầu. Các vạch đường trên dưới hợp lại 36 cung là một sự tuần hoàn lớn, vậy nên chẳng nói là nhị cửu bàn mà nói là Tam Lục Bàn thức. Mười tám bàn của vạch đường trên hoàn thành thì là vận số thế gian nằm ở hội Ngọ, vậy nên nói :

 

 

 

 

 

Thử thời chánh tại trùng dương thiên : Nếu lấy thời điểm của hôm nay mà nói thì nên là hội Mùi, là 18 bàn của vạch đường dưới, là sự bắt đầu của vận số thế gian, tức là lúc Ngọ Mùi giao thay ( tiếp thay ) nhau, cũng có nghĩa là là 36 bàn thức đã bắt đầu lấp đầy.

 

Chỉ dư Uẩn Tử dự linh tàn là chỉ những Linh Tàn có thiện căn cạn mỏng bị Ngũ uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức che lấp và chưa tu thành chánh quả. Uẩn Tử tức là những Phật tử tu đạo chưa thành. Linh Tàn tức là những quỷ hồn của địa ngục. Thập bát ( 18 ) bàn của Đông Phương đã kết thúc, hiện đi đến vận số của 18 bàn Tây PhươngKinh Dịch lấy đông phương làm hữu hình, lấy Tây Phương làm vô hình. Vào lúc 18 bàn trước đó, Minh Minh Thượng Đế đã gửi các Phật Tử đến đông phương; hiện nay hậu 18 bàn bắt đầu, các linh của đông phương nên quay trở về tây phương. Đây là thời cơ tốt nhất để tu đạo quay trở về lại Tiên Thiên, vậy nên lời điểm đạo đối với Khôn đạo nói rằng : nễ nhược thất liễu thử cơ hội, vạn bát niên tải nan thân phiên ( con nếu mất đi cơ hội này, thật khó trở mình vạn bát niên ). Những người ra đời hiện nay đều là từ những Uẩn Tử và Linh Tàn sinh ra, bởi vì Thượng Đế chẳng gửi các Phật Tử đến đông phương nữa, vậy nên đây là cơ hội cuối cùng mà Minh Minh Thượng Đế ban cho con người, nếu không thì nhất định cần phải đợi Nguyên Hội sau lại sinh làm người.

 

 

Vị Tổ Sư đời thứ 16 là Tổ Sư Lưu Thanh Hư lại ở vừa đúng vào thời đại khai Phổ Độ, phụng Thiên thừa Vận đại xiển chân cơ. Nay những thiện nam tín nữa có Tổ Đức Căn Cơ Phật Duyên đều có thể đắc đạo tu đạo, đấy là thánh nghiệp Bạch Dương 10800 năm xưa nay chưa từng có, đồng thời lúc Minh Sư có lãnh thiên mệnh đang mật truyền Tam Bảo thì Chư Phật Bồ Tát của tam giới mười phương và Nhị Thập Bát Tú, Lôi Bộ, Phong Bộ, Hổ Bộ, Long Bộ đều hộ pháp đàn, tất cả những tà ma yêu quái đều phải lập tức lui ra xa, lúc này mới có thể truyền thụ thiên cơ bí bảo mà từ xưa chẳng dễ gì truyền thụ cho. Lúc này vận số trên đời là Trọng Càn, tức là vạch đường trên sắp kết thúc, vạch đường dưới sắp bắt đầu, lúc này cũng là lúc các Phật Tử phải quay trở về lại Tây Phương. Vậy nên nói :

 

 

Đại Thiên Uẩn đẳng câu triều tiền. Các Uẩn Tử trên đời đều phải hướng về Tây Phương tiến thẳng về trước không được bỏ lỡ qua mất cơ hội cuối cùng này. Vào lúc này những Uẩn tử cầu đạo mỗi người đều có thể đắc được con đường sáng tỏ thật sự để trở về cố hương. Từ nay về sau chỉ cần thuận theo thiên lí mà làm, bảo đảm sẽ không phải chịu nỗi khổ nơi âm sơn, bình an vô ưu mà trải qua vạn bát niên của Đại Thiên kết thúc.

 

 

Dư kim lãnh thụ ân sư mệnh, truyền nễ bổn lai chân huyền quan : Tôi nay lãnh thụ pháp chỉ của Ân Sư, thay thầy truyền thụ cho các vị Huyền Diệu Quan mà các vị vốn có. Huyền Diệu Quan này là vô hình, chính là bổn tánh của con người, vốn dĩ cư ngụ ở bên trong thân thể con người; bởi vì lúc rơi vào hậu thiên, chịu phải sự nghịch hành của khí số mà bị khoá nhốt chặt lại rồi. Nay đã mở khoá, khiến cho các vị hiểu rõ trung đạo, đem trung đạo này tồn ở trong tâm, bồi dưỡng tâm tánh khiến cho trở thành Đại Sanh để quay trở về lại gốc cội, mới trở thành cái đạo sinh sôi nảy nở không ngừng. Trước khi điểm huyền, người cầu đạo trước tiên phải lập xuống “ mười điều đại nguyện ” để hướng về trời biểu rõ tâm chí cầu đạo của mình. Lập nguyện chẳng phải là phát lời thề độc mà là sự hiển hiện bộc lộ chân tâm đối với ông trời ơn trên.

 

Trong Lễ Chúc nói rằng : “ Nễ nhược nguyện bất năng liễu, nan bả hương hoàn; hiện kim tai sát, cự tao thân biên. Nhất thiết binh hoang, lão ấu đồng triêm, phản tâm báng đạo, lị sư mạ thiên, hồng thệ đại nguyện, vĩnh bất năng hoàn. ”

 

Đại Nguyện tức là những nguyện mà khi nãy đã lập lúc quỳ dưới toàn sen của Minh Minh Thượng Đế, nguyện cầu Chân Lí Thiên Đạo tánh lí chân truyền, và lập nguyện rằng sau khi cầu đạo thì tuân thủ 10 điều đại nguyện; bất cứ tôn giáo nào nếu như chẳng hành cái đạo trung dung thì không thể thành đạo. Đạo của Khổng Mạnh tuy rằng chẳng nói đến việc thành Tiên thành Phật, trái lại lại có thể thành Tiên thành Phật, bởi vì đều thuộc cái đạo Trung Dung. Mười điều đại nguyện đều thuộc đạo trung dung, vậy nên nhất định cần phải tuân thủ. Nếu như chẳng thể liễu kết mười điều nguyện lớn này thì khó mà thành đạo trở về lại cố hương. Tánh lí chân truyền chính là truyền cái pháp của nhất chỉ kiến tánh, đấy là lập bổn, bổn lập mà đạo sanh ( chăm lo dựng lập cái gốc, gốc có vững thì đạo lí mới sinh ra ). Nội Thánh Ngoại Vương đều kiêm tu thì mới có thể sen ra ao bẩn chẳng nhiễm bùn, tức là tu cái công của nội đức, bên ngoài hành cái đạo trung hoà, tự tánh sau khi đại sanh mới có thể phản Tánh hồi Thiên.

 

 

Hiện nay tất cả những tai kiếp hung hãn của thiên tai nhân hoạ đều hiển hiện ở bên mình, những hoạ hoạn tai hại tụ tập sinh sôi ở khắp mọi nơi; già trẻ nam nữ người người đều cùng chịu khổ, duy chỉ có những người tu đạo quay trở về trời có thể may mắn miễn được tai kiếp hung hãn. Thế nhưng sau khi cầu đạo, nếu có phản tâm báng đạo hoặc mắng trời mạ thầy, hoặc chẳng tuân đạo mà hành, vậy thì hồng thệ đại nguyện đã lập không hoàn thành mà vĩnh viễn luân hồi trong biển khổ của hồng trần. Thế nhưng mà Lão Mẫu giáng đạo, Tiên Phật trợ đạo, Thầy truyền đạo thảy đều là sự hộ trì của tha lực, duy chỉ có nguyện lực mang tính tự phát mới có thể khắc phục mọi Ma Nạn, dũng cảm tinh tấn tiến về phía trước đạt thành chánh quả. Trong Lễ Chúc sau khi đã lập xong mười điều nguyện lớn thì bèn là điểm huyền. Điểm huyền là bộ phận quan trọng nhất cốt lõi nhất trong Lễ Chúc cầu đạo.

 

 

『當前即是真陽關真水真火已具全。余今指您一條路。燈光照耀在眼前。二目瞳神來發現。洒洒沱沱大路坦。西方雖遠頃刻到。混含長生不老天。今得此一著跳出苦海淵。飛身來上岸。即得登雲船』。

Đương tiền tức thị chân dương quan, chân thuỷ chân hoả dĩ câu toàn. Dư kim chỉ nễ nhất điều lộ, đăng quang chiếu diệu tại nhãn tiền. Nhị mục đồng thần lai phát hiện, sái sái đà đà đại lộ thản; tây thiên tuy viễn khoảnh khắc đáo, hỗn hàm trường sanh bất lão thiên. Kim đắc thử nhất trước, khiêu xuất khổ hải uyên. Phi thân lai thượng ngạn, tức đắc đăng vân thuyền.

 

 

Vào ngay lúc mắt nhìn ngọn Phật đèn là bổn lai diện mục chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác chẳng có Nhân ( Người ) chẳng có Ngã ( Tôi ) , lúc này là đại đạo dương quan chân thật bất biến thông đến Lí Thiên. Chân Dương Quan tức là chỉ Huyền Quan Khiếu, là cánh cửa ra vào của Tự Tánh.

Huyền Quan tức là tự tánh của con người cư ngụ ở bên trong cơ thể người. Tánh là hợp thể của hai khí âm dương, người người đều có Tự Tánh, do đó nói Chân Thuỷ Chân Hoả đã có đầy đủ cả, tức là hai khí thuỷ hoả có thể trung hoà thành một, trở thành cái đạo Trung Hoà. Bởi vì Tự Tánh rơi vào bên trong cơ thể người của Hậu Thiên, vì sự nghịch hành ( nghịch hành : sự đi ngược với lẽ thường, luân thường đạo lí ) của khí số nhân dục ( dục vọng ham muốn của con người ) mà bị khoá nhốt lại, chẳng cách nào quay trở về trời. Ta nay dùng một chỉ đã mở khoá, chỉ cần con tu sửa những nghịch hành của nhân dục thì có thể thuận hành ( thuận đạo mà hành ) mà chẳng có trở ngại.

 

Khi cái thể của bên trong biểu hiện lộ ra bên ngoài, có thể nhìn thấy ánh sáng của nó chiếu sáng chói lọi ở trước mắt. Ánh sáng này chẳng phải là thứ mà nhục nhãn có thể nhìn thấy được, cần phải dùng đồng thần của hai mắt mới có thể nhìn thấy. Con nếu như có thể nhìn thấy con đường lớn thảnh thơi tự tại không vướng mắc không câu thúc, đấy là Nguyên Thể Nội Thánh của con đã dục thành, vậy nên Tây Thiên tuy xa mà chỉ khoảnh khắc bèn lập tức có thể đến.

 

 

Hỗn hàm trường sanh bất lão thiên là nói hai khí âm dương hỗn hoà ( hỗn tạp, dung hợp cùng nhau )  trở thành cái khí trung đạo, tức thành cái đạo sanh sanh bất tức ( sinh sôi nảy nở không ngừng ).

Cái thể của Đạo này hay còn gọi là Mạt Hậu Nhất Trước; con nay đắc được Nhất Trước này thì có thể nhảy ra khỏi biển khổ vực sâu mà phi thân đạt đến bến bờ giải thoát bên kia, bèn có thể cưỡi mây mà quay trở về trời.

 

 

 

 

Một chỉ của Điểm Truyền Sư là dẫn chỉ kiến nguyệt ( nương vào ngón tay để chỉ cho thấy mặt trăng ) , đem lục căn : nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý thảy đều vạch quy định phân giới vào trong cái vòng tròn vô cực, lại điểm Trung Ương Huệ Mục Bảo Địađấy tức là lục căn hoàn trả về bổn thể Vô Cực thanh tịnh vô nhiễm. Đắc được Thiên Mệnh Chân Truyền chân thật bất hư của Sư Tôn Sư Mẫu chắc chắn nhất định có thể siêu sanh liễu tử, lìa tất cả mọi khổ, và có sự tiêu dao của vạn bát niên.

Phần Lễ Chúc cuối dùng dành cho Càn Đạo nói rằng : “ Nhất Chỉ trung ương hội, vạn bát đắc siêu nhiên ”『一指中央慧。萬八得超然』

 

Khi Điểm Truyền Sư một chỉ mở ra khoá vàng huyền quan thì âm dương hai số tiếp nhau mà tuần hoàn vô tận, lại cộng thêm sự trung hoà và hội hợp ở trung ương mà ngưng thành cái thể của Đạo. Sau khi đã dục thành Thánh thể, vào lúc Đại Thiên kết thúc trở nên hỗn độn, chẳng những có thể vượt qua nỗi khổ của vạn bát niên một cách siêu nhiên, mà còn có thể đắc được cái đạo của siêu sanh liễu tử, lìa mọi khổ ách và có sự tiêu dao của vạn bát niên.

 

Những lời Lễ Chúc dành cho Khôn đạo rằng : “ 『今時已至末劫年。實告一切眾蘊殘。您若失了此機會。萬八年載難身翻。余今領受法敕旨慈悲傳您真玄關』。

“ Kim thời dĩ chí mạt kiếp niên, thật cáo nhất thiết chúng uẩn tàn, nễ nhược thất khứ liễu thử cơ hội, vạn bát niên tải nan thân phiên. Dư kim lãnh thụ pháp sắc chỉ, từ bi truyền nễ chân huyền quan. ”

 

Thời hiện nay đã đến những năm mạt kiếp, tức là kì hỗn độn của một Tiểu Nguyên. Bảo thật với tất cả mọi Uẩn Tử và Linh Tàn rằng ơn trên từ bi, Lão Mẫu hạ lệnh mở cửa phổ độ, Tam Tào đều độ. Con nếu như đánh mất đi cái cơ hội phổ độ lần này, trong vạn bát niên của kì hỗn độn này sẽ khó mà trở mình được nữa. Ta nay phụng thiên mệnh truyền cho con Chơn Huyền Quan tức là cái đạo của Chân Tánh, con nhất định cần phải tu thành cái đạo này thì mới có thể vượt qua một cách an nhiên. Trước lúc điểm Huyền, lập xuống 10 điều nguyện lớn rồi nói :

 

 

『你若不照愿行。必遭天譴。無有別囑。誠聽點玄』。Nễ nhược bất chiếu nguyện hành, tất tao thiên khiển, vô hữu biệt chúc, thành thính điểm huyền.

 

Đoạn này đắc biệt cảnh báo răn bảo rằng phật lực khó chống đỡ nghiệp lực, nghiệp lực khó chống đỡ nguyện lực. Lập nguyện rồi mà chẳng chiếu theo nguyện hành, ngoài việc chẳng cách nào trở về cố hương Phật Quốc ra, các oan thân chủ nợ luỹ kiếp chắc chắn sẽ gia tốc thôi thúc đòi báo. Vậy nên lập nguyện là giúp bản thân nương nhờ vào sự tích công bồi đức mà liễu nguyện trở về cố hương. Sư Tôn Sư Mẫu ngoài việc này ra, chẳng còn gì khác có thể dặn bảo đối với chúng ta nữa. Tiếp theo đó thì là đem vọng tâm quay trở về Nhất Tâm, vạn duyên buông xuống, thành kính tĩnh lặng chờ đợi điểm Huyền.

Tiếp theo đó, Lễ Chúc rằng : 『二目要迴光。一點真太陽。眼前觀即是燈下看輝煌。這是真明路。了劫還故鄉』。

 

“ Nhị mục yếu hồi quang, nhất điểm chân thái dương, mục tiền quán tức thị, đăng hạ khán huy hoàng, giá thị chân minh lộ, liễu kiếp hoàn cố hương. ”

Đoạn này nói hai mắt phải hồi quang, là yếu lĩnh dạy người tu đạo soi ngược Tự TánhDùng đồng thần của hai mắt nhìn hướng về phía trước, ở trước hai mắt có thể nhìn thấy tượng ( hình trạng, trạng thái ) của Tự Tánh. Trong Tánh Tượng có thể nhìn thấy một ngôi sao sáng tỏ, tức là một điểm Chân Thái Dương; mà một điểm Chân Thái Dương rốt cuộc là hình dạng như thế nào đây ? Nhãn tiền quán tức thị ( quán trước mắt chính là nó ) , cái mà nhìn thấy giống như ánh sáng chói lọi mà đèn Lưỡng Nghi hợp phóng vậy, đấy là pháp kiến tánh, cũng là con đường sáng tỏ thật sự để thành đạo trở về cố hương.

 

Lễ Chúc cuối cùng nói : 『今得此一指飄飄在天堂。無有生和死。終日煉神光。』。

Kim đắc thử nhất chỉ, phiêu phiêu tại thiên đường, vô hữu sanh hoà tử, chung nhật luyện thần quang, lâm trung thụ nhất chỉ, tri chủ bảo vô dạng.

Đối với Càn Đạo thì nói đắc Nhất Trước là Thiên Đạo hỗn hàm trường sanh bất lão, tức là thể của nội thánh. Chỗ này thì đối với Khôn Đạo lại nói là đắc Nhất Chỉ là nói sau khi Minh Sư một chỉ điểm huyền rồi, hai khí bèn phiêu phiêu vận chuyển nơi thiên đường. Thiên đường này chẳng phải là chỉ Thiên Đường của Thiên Đạo mà là chỉ thể nội của nội thánh. Lúc này chỉ là sự hình thành ban đầu của Tánh, vẫn còn phải tiếp tục nuôi lớn thêm, vun đắp thêm thì tánh quang mới có thể to lớn sáng ngời. Vậy nên phải suốt ngày luyện thần quang, tức là sự luyện công ngày đêm tự cường chẳng ngưng nghỉ.

 

『林中受一指。知主保無恙』lâm trung thụ nhất chỉ, tri chủ bảo vô dạng.

Lâm trung thụ nhất chỉ là nói rõ cái ý “ Tử Trúc Lâm Trung Quán Tự Tại ”, cái ý Trung Đạo mà Minh Sư đã chỉ thị, có cái trung đạo này trong tâm. Biết trung là chủ của thân. Chấp giữ trung đạo mới có thể bảo vệ gìn giữ cái Tánh của trung đạo bình an vô ưu chẳng có tai kiếp bệnh tật, siêu nhiên liễu kiếp, cuối cùng trở về cố hương Vô Cực.

Số lượt xem : 1589