Mười Đại Hạnh Nguyện Của Bồ Tát Phổ Hiền
Nếu muốn thành tựu công đức Phật
Phải tu mười hạnh nguyện Phổ Hiền
Muôn chúng đều có thể thành Phật
Nếu y theo thập đại nguyện vương.
Trong Tứ Đại Bồ Tát Nhà Phật
Quán Âm, Địa Tạng và Văn Thù
Phổ Hiền đại biểu lý, định, hạnh
Của tất cả Chư Phật mười phương.
Ngài còn gọi “ Thiện Nhiếp Kim Cương ”
Chân Như và Như Ý Kim Cương
Đồng thể với Kim Cương Tát Đỏa
Ở trong Mật Tông thường xưng tụng.
Những gì là thập đại nguyện vương ?
Lễ kính Chư Phật, thường ngợi khen
Xưng tán Như Lai, cúng dường rộng
Sám hối nghiệp, tùy hỷ công đức.
Thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ
Thường học Phật, hằng thuận chúng sinh
Công đức hết thảy đều hồi hướng
Khắp tất cả pháp giới thập phương.
Hạnh nguyện nhất, kính lễ Chư Phật
Lễ là một hạnh trong Ngũ Thường
Cung kính được biểu hiện thành lễ
Với Chư Phật, càng phải thể hiện.
Người muốn học Phật, lễ trước tiên
Tôn Sư trọng đạo, lẽ hiển nhiên
Tín kính mà chẳng cuối đầu lễ
Thì còn kém loài heo, chó, chuột …
Vì sao người chẳng muốn lễ Phật ?
Vì xưa chưa từng lễ bái qua
Nhân đó còn tồn tại tướng Ngã
Cho “ Ta ” còn hơn cả Tu-di.
Có người thấy người khác lễ Phật
Liền đến gần như gỗ khác gì
Hoặc đứng hoặc ngồi như tảng đá
Muôn màu muôn vẻ chẳng thiếu chi.
Bước đầu lễ Phật : lễ bái tượng
Tượng gỗ đá tuy là biểu tượng
Lễ kính phải có chỗ để hướng
Phải có mục tiêu để đại biểu.
Chư Phật có mặt khắp mười phương
Pháp thân chẳng nơi nào không hiện
Tượng gỗ đá chỉ là biểu tượng
Để khỏi xoay bốn phương tám hướng.
Tượng Phật cũng giống như quốc kỳ
Đại diện cho quốc gia sinh mệnh
Hướng về cờ ấy để lễ kính
Là bày tỏ lòng cung kính nước mình.
Lạy Phật mà tâm không hoan hỷ
Miễn cưỡng, thấy ngượng nên lạy theo
Tuy lễ, tướng ngã mạn chưa bỏ
Lễ ấy gọi là “Ngã Mạn Lễ”.
Nếu người chỉ vì muốn được tiếng
Khen ngợi tu hành và cúng dường
Tùy hỷ, bắt chước, tâm chẳng thật
Lễ Phật ấy là “ Cầu Danh Lễ ”.
Thân tâm nếu vọng hướng theo người
Người khác lễ, mình cũng lễ thôi
Chỉ đơn thuần làm theo người khác
Gọi là “ Thân tâm xướng hòa lễ ”.
Nếu chẳng phạm vào Sát, Đạo, Dâm
Tam độc chẳng tồn ở nơi tâm
Chẳng ác khẩu, vọng, ỷ, lưỡng thiệt
Lễ ấy gọi là Trí Tịnh Lễ.
Lúc lễ Phật dùng tâm quán tưởng
Đồng thời kính lễ Phật mười phương
Hóa thân kính lễ pháp giới tận
Gọi là “ Biến Nhập Pháp Giới Lễ ”.
Nhất tâm lễ bái, chẳng khởi vọng
Chuyên nhất quán tưởng, chẳng lăng xăng
Một Phật đồng pháp giới Chư Phật
Gọi là “ Chánh Quán Chí Thành Lễ ”.
Bình đẳng lễ bái không chấp tướng
Cung kính không phân biệt đối tượng
Một niệm cũng chẳng sanh, chẳng diệt
Gọi là “ Thật Tướng Bình Đẳng Lễ ”.
Một lễ cũng là tất cả lễ
Một Phật cũng là hết thảy Phật
Một hay tất cả đều không chấp
Đó là “ thật tướng bình đẳng lễ ”.
Một niệm không sanh, toàn thể hiện
Mười phương thế giới hiện toàn thân
Lớn đồng pháp giới là thật tướng
Thật tướng vô tướng khắp nơi tồn.
Lễ mà không còn tướng Nhân, Ngã
Tướng chúng sinh và tướng thọ giả
Cùng với pháp giới hợp thành một
Là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Trước, thân là điểm của Tu-Di
Nhưng Tu-Di trong pháp giới thì
Giống như hạt vi trần cực nhỏ
Pháp thân bao trọn núi Tu-Di.
Trên là chỉ mới nói sơ lược
Bảy cách lễ bái Tam Bảo thôi
Rộng ra có ba trăm nghi lễ
Lại có tới ba nghìn oai nghi.
Kính chính là vâng giữ quy củ
Căn cứ theo quy củ mà làm
Như kính người sẽ giữ khuôn phép
Chẳng tùy tiện cẩu thả đối nhân.
Mọi việc làm đều phải hợp lễ
Chẳng hợp lễ thì chẳng nhìn xem
Chẳng hợp lễ thì không nghe, nói
Chẳng hợp lễ tuyệt đối không làm.
Kính Phật kính lễ Phật mười phương
Ba đời quá khứ, hiện, vị lai
Phật ngoài, Phật trong đều kính lễ
Tam nghiệp thanh tịnh Phật tự tại.
Lễ kính học ngài Thường Bất Khinh
Tâm tồn cung kính chẳng dám khinh
Gặp người đều kính trọng khen ngợi
Đối người luôn khiêm tốn hạ mình.
Hạnh nguyện hai, xưng tán Như Lai
Lòng hoan hỷ công đức các ngài
Thì hòa ánh sáng trí tuệ Phật
Ánh sáng Tự Tánh được hiển lộ.
Tự Tánh sẽ sản sinh công đức
Linh quang hiện chiếu phá ám si
Liền không khởi vọng, không tạo nghiệp
Ánh sáng trí tuệ hiển thêm nhiều.
“Phật, khắp đất trời chẳng ai bằng
Mười phương thế giới đâu ai sánh
Tất cả thế gian con đều thấy
Hết thảy không ai khả sánh bằng. ”
“Thế Tôn sắc tướng như núi vàng
Lại như mặt trời chiếu thế gian
Nhổ sạch gốc rễ mọi khổ não
Chúng con đảnh lễ đấng Pháp Vương”…
Như Lai là không từ đâu đến
Và cũng chẳng có đi về đâu
Như là vắng lặng, Lai là động
Như đến nhưng bản thể chẳng động.
Như chính là Lý, Lai là Sự
Là pháp giới Lý Sự vô ngại
Là một trong mười danh hiệu Phật
Kinh Kim Cang, các Kinh đã nói.
Hạnh nguyện ba, rộng tu cúng dường
Thân tâm cúng dường Phật mười phương
Từ mười loại thành cả vạn loại
Quán tưởng từ một thành vô lượng.
Đối trước một vị Phật cúng dường
Quán tưởng cúng dường khắp mười phương
Trước vô lượng Phật khắp pháp giới
Đều có thân ta tác cúng dường.
Quán tưởng cúng dường khắp pháp giới
Thì được công đức như Pháp giới
Trí tuệ như pháp giới khả đạt
Viên thành quả vị như pháp giới.
Cúng dường bằng tất cả khả năng
Bao nhiêu năng lực tận dụng sạch
Cúng dường Tam Bảo, Phổ Hiền hạnh
Một cách rộng lớn đến vô tận.
Chúng sinh thảy đều có Phật tánh
Vị lai đều là Phật sẽ thành
Rộng tu cúng dường tâm bình đẳng
Cung kính chẳng khởi phân biệt tâm.
( câu chuyện vì sao Phật Tổ không giúp tôi ? )
Cúng dường chúng sinh có nhiều cách
Như xây cầu, xây nhà tình thương
Giúp trẻ mồ côi, viện dưỡng lão
Cơm chay miễn phí, thí thuốc men…
Hằng thuận vì lợi ích chúng sinh
Phụng sự chúng sinh mọi việc lành
Mới chính là điều quan trọng nhất
Cần phải y theo lời Phật dặn.
Hạnh bốn là sám hối nghiệp chướng
Những lỗi đã sinh khiến đoạn diệt
Sám hối báo chướng, phiền não chướng
Thanh tịnh thân, khẩu, ý tam nghiệp.
Sám là ăn năn sửa lỗi trước
Hối, chừa bỏ lỗi sau không tái phạm.
Tội đã tạo từ nay đoạn dứt
Điều ác chưa làm không phát sinh.
Việc ác chưa sinh không cho khởi
Việc thiện chưa sinh khiến phát sinh.
Việc thiện đã sinh khiến tăng trưởng
Việc ác đã sinh khiến dứt ngừng.
Đối trước Phật thành khẩn tha thiết
Thống thiết rơi lệ sám hối nghiệp
Bi ai cầu xin, nguyện ngừng dứt
Chơn sám hối, nghiệp chướng tự tiêu.
Hạnh thứ năm, tùy hỷ công đức
Công đức Phật, Bồ Tát, Thanh Văn
Duyên Giác và hết thảy chúng sanh
Tùy hỷ cả tự thân công đức.
Tùy là thuận theo hay theo cùng
Hỷ là hoan hỷ ở nơi tâm
Công là công mình, người đã lập
Đức là hạnh có được nơi tâm.
Làm việc thiện dốc hết tâm sức
Lợi ích đại chúng gọi là công
Đức có phân hiển đức, mật đức
Một rõ, một âm thầm lợi chúng.
Tự làm việc tốt, người khác theo
Người khác tùy hỷ công đức mình
Người làm việc tốt, mình trợ giúp
Mình tùy hỷ công đức của người.
Làm thiện giúp đời là niềm vui
Nuôi dưỡng tâm lành, nâng phẩm giá
Công đức không tùy khối lượng lớn
Mà tùy tăng trưởng tâm lành thôi.
Bảo nhau cùng làm sạch đường phố
Dọn vệ sinh các bãi rác thải
Bảo vệ rừng cân bằng sinh thái
Là tùy hỷ công đức chung vui.
Hạnh sáu là thỉnh chuyển pháp luân
Bánh xe pháp nhiếp phục ma quân
Tất cả mọi thiên ma ngoại đạo
Khiến chánh pháp có thể trường tồn.
Thỉnh Phật … thỉnh pháp sư thuyết pháp
Đều gọi là thỉnh chuyển pháp luân.
Cư sĩ, pháp sư ra thỉnh pháp
Khiến Ma vương chẳng dám xuất hiện.
Công đức của việc chuyển pháp luân
Nhờ sự thỉnh pháp được thành tựu
Có công đức ấy tuệ sẽ mở
Trí tuệ linh quang càng sáng tỏ.
Thỉnh pháp sư giảng pháp người nghe
Đem đến lợi ích cho mọi người
Thì việc ấy đã có “ tùy hỷ ”
Là tùy hỷ công đức lớn nhất rồi.
Không chỉ mỗi giảng kinh thuyết pháp
Mới được gọi là chuyển pháp luân
Bất kỳ việc liên quan Phật giáo
Cũng đều gọi là chuyển pháp luân.
Như là in ấn các kinh sách
Ghi lại bài giảng, ghi pháp âm
Tụng kinh, lạy kinh, dịch kinh điển…
Nghe pháp cũng đang chuyển pháp luân.
Hạnh thứ bảy, thỉnh Phật trụ thế
Đem ánh sáng pháp thường chiếu rọi
Khiến thế giới không còn tăm tối
Phá vô minh cội nguồn tội lỗi.
Người nếu muốn thỉnh Phật trụ thế
Phải không ngừng hoằng pháp lợi sinh
Tinh tấn tu hành theo lời Phật
Có tâm, nguyện, hành tất có ứng.
Hạnh thứ tám, thường học theo Phật
Như Tôn Giả A Nan đa văn
Không giải đãi lười biếng hôn trầm
Trừ tam độc, tu giới định tuệ.
Lời Phật dạy, thể hiện nơi thân
Qua lời nói, cư xử hành động
Luôn từ bi, an nhiên tự tại
Xả quên mình, lợi lạc chúng sinh.
Hạnh chín là hằng thuận chúng sinh.
Thuận theo tập quán của chúng sinh
Mà giáo hóa không hề chán mỏi
Khiến chúng sinh bỏ mê về giác.
Chúng sinh vốn sống trong tham dục
Nương tham dục giáo hóa chúng sinh
Đem lại niềm an vui lợi lạc
Giải thoát khỏi phiền não, tử sinh.
Như chúng sinh cầu tài cầu lộc
Thì nương theo đó giảng phước trồng
Còn như xin dâng sao giải hạn
Thì giảng nhân quả nghiệp báo thành.
Chúng sinh bị ma nhập, quỷ ám
Tụng cho nạn nhân một thời kinh
Khuyên tụng kinh, sám hối, niệm Phật
Ăn chay, cầu đạo, tu tinh tấn.
Chúng sinh có bệnh, thuốc men thí
Vì họ mà làm vị lương y
Chỉ người lạc đường về đường chánh
Làm đuốc sáng phá đêm tối tăm.
Nếu có thể hằng thuận chúng sinh
Chính là hằng thuận cúng Chư Phật
Nếu làm cho chúng sinh vui mừng
Là làm vui tất cả Như Lai.
Dùng tâm đại bi và bình đẳng
Thừa sự lợi ích cho chúng sinh
Thành tựu pháp cúng dường Chư Phật
Thì khả thành tựu quả vô thượng.
Hạnh mười, hồi hướng khắp tất cả
Những việc làm công đức có được
Cho mọi chúng sanh khắp pháp giới
Khiến chúng sinh giải thoát, thành tựu.
Hồi hướng khắp tất cả chúng sinh
Dùng lòng biết ơn chuyển đức công
Hướng về khắp chúng sinh, Chư Phật
Khiêm tốn, chia vui, xả Tôi mình.
Hồi là quay lại xoay vào trong
Hướng nghĩa là hướng ra bên ngoại
Hồi phàm hướng Thánh là hồi hướng
Từ chúng sinh hướng đến Phật hạnh.
Hồi hướng, hồi chúng sinh hướng Phật
Hồi sự hướng lý, tiểu hướng đại
Hồi tự hướng tha, nhân hướng quả
Càng hồi hướng, càng rộng tâm lượng.
Đem tất cả công đức mình tu
Hồi hướng mọi chúng sinh pháp giới
Biểu thị công đức mình tu được
Là sở hữu chung của mọi Chúng.
Đem tất cả công đức sự tướng
Hướng Lí Thể pháp giới Chân Như
Tam Luân Thể Không “ Ta, Người, Vật”
Vô trụ như hư không vô tận.
Đem tất cả công đức đã tu
Nguyện chúng sinh thường được an lạc
Hướng Quả Phật tối cao vô thượng
Ấy gọi là hồi nhân hướng quả.
Nguyện hồi hướng về khắp tất cả
Là hạnh hy hữu, tối cao thượng
Tu mười điều hạnh nguyện Phổ Hiền
Thì trọn nên đạo quả vô thượng.
Số lượt xem : 1106