Ý nghĩa của việc thắp đèn Phật
Kinh Hoa Nghiêm có kệ rằng : “ Tâm, Phật và Chúng sanh, cả ba không sai khác. ” Người người là Phật. Một ngọn đèn có thể phá vỡ sự u ám của vạn năm, một trí có thể trừ si mê vạn năm.
Bởi vì chúng sanh hễ rơi vào cõi hồng trần, bị mọi thứ vật dục che lấp tâm tánh thanh tịnh mà tạo thành ngọn đèn tâm chẳng sáng tỏ, lại thêm sự vướng víu nhiếp thụ lẫn nhau của mạng lưới nhân duyên càng khiến cho trí tuệ của chúng sanh ở trong sự vô minh đen tối. Thắp sáng ngọn đèn tâm khiến cho nó có thể khôi phục cái trí tuệ tiên thiên mà vốn tự có đầy đủ, càng kì vọng có thể đèn đèn tiếp nối nhau, đem cái thế giới ta bà này hoá thành cõi tịnh độ hoa sen, khiến cho người người đều khôi phục bổn lai diện mục của chính mình, đạt bổn hoàn nguyên ( khôi phục lại linh tánh bất muội của ban đầu ), tự thấy Vô Sanh Lão Mẫu, Bồ Đề Tự Tánh, soi phá ngũ uẩn đều không, độ tất cả mọi khổ ách.
“ Thắp sáng đèn trước Phật, diệt trừ lửa tâm đầu, nguyện dùng đại trí tuệ, soi phá mọi vô minh ”, nhân đấy mà quán soi ngọn lửa tâm đầu của bản thân ( những sự tham muốn ) phải chăng đã diệt trừ, đại trí tuệ phải chăng đã sinh khởi, có thể soi phá những đen tối vô minh ( phiền não ) hay không, như vậy thì nên tu dưỡng tâm tánh như “ thường thường siêng lau quét, chớ để nhiễm bụi bặm ”, tự soi chiếu tâm tánh.
Ngọn đèn Phật mà đại biểu cho Vô Cực, ý nghĩa tượng trưng của nó đại biểu cho Vô Cực và bổn thể sanh dục vạn vật vạn hữu, bởi vì nó chẳng có hình chẳng có tướng, người phàm chẳng cách nào nhìn thấy được vậy nên dùng một ngọn đèn sáng tỏ lấy làm sự biểu trưng; còn ở trên bàn cúng hai bên mỗi bên có một ngọn, bên trái là đại biểu cho Càn đạo, bên phải đại biểu cho Khôn đạo, tượng trưng cho âm dương lưỡng nghi, biểu trưng cho cái tướng của vạn vật sanh khởi, do bởi vạn vật đều duyên khởi nơi lưỡng nghi diễn hoá mà ra, người phàm cũng chẳng cách nào biết được sự huyền diệu sâu xa khó hiểu của nó, do đó dùng hai ngọn đèn biểu trưng rõ, cũng đại biểu cho cái nghi lễ nam, nữ có sự khác biệt.
Lúc bình thường thì 3 ngọn đèn này đều không thắp, chỉ có sáng tối hiến hương hoặc khi mở lớp, khi bàn đạo cung nghênh Thánh Linh của Lão Mẫu đến Đàn và Chư Thiên Thần Thánh hộ Pháp Đàn mới thắp lên 3 ngọn phật đèn.
Khi thắp đèn thì nhất định cần phải thắp ngọn đèn Vô Cực ở chính giữa trước, lại thắp “đèn Nhật” phía bên trái, cuối cùng thắp “đèn Nguyệt” phía bên phải, biểu trưng cho nghĩa Vô Cực sanh Thái Cực, Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, cũng là cái ý “ nhất bổn tán vạn thù ”.
Sau khi bàn xong Phật Sự hoặc lễ bái khấu đầu xong thì phải tắt phật đèn để tiễn phật giá. Trước hết tắt ngọn “đèn Nguyệt”, lại tắt ngọn “đèn Nhật”, cuối cùng tắt ngọn đèn Mẫu Vô Cực ”, tức là ý “ vạn thù quy nhất bổn ”.
Ánh đèn đại biểu cho bổn thể tuyệt đối của vũ trụ, tức là Thượng Đế. Mà Thượng Đế của bổn thể vũ trụ thì như ánh sáng vô hạn, sáng ngời vô song, ánh sáng này cũng là nguồn gốc của linh tánh con người chúng ta, cũng vô cùng quang minh sáng ngời trong suốt, do vậy mà linh tánh còn gọi là “ linh quang ”. Sinh mệnh của con người là ánh sáng, Thượng Đế đương nhiên cũng là ánh sáng, do vậy dùng ánh đèn để đại biểu cho thật tướng bổn thể của vũ trụ - Minh Minh Thượng Đế, là có ý nghĩa sâu sắc đấy.
Nơi Phật giáo cho rằng vũ trụ tuyệt đối là “ Thường Tịch Quang ”. Nơi Ấn Độ giáo cũng vậy. Phật giáo và Ấn Độ giáo đều cho rằng ánh sáng là bổn thể của vũ trụ tuyệt đối.
Thắp đèn Phật là bộc lộ thông điệp Chư Phật Bồ Tát đem lại cho chúng sanh sinh mệnh quang minh sáng ngời, cũng là bổn ý truyền đạo của Chư Phật Bồ Tát, giống như thời cổ xưa truyền đạo , gọi là “ truyền đăng ”.
Sau khi ngọn Phật đèn thắp lên rồi, lúc bàn đạo thì Truyền Đạo Sư sẽ thành kính cung thỉnh Minh Minh Thượng Đế lâm đàn, cũng cung thỉnh Chư Phật mười phương, các vị Tiên Chơn, Bồ Tát và Lôi bộ, Phong Bộ, Hổ Bộ, Long Bộ và nhị thập bát tinh tú, Chư Thiên Thần Thánh giáng Đàn, hộ Đạo, hộ Đàn.
Khi ngọn đèn Phật thắp sáng, cả phật đường đều tràn ngập ánh hào quang quang minh xán lạn, làm trang nghiêm cả đạo trường, cũng làm trang nghiêm cái tâm của tất cả những người cầu đạo.
Lúc cầu đạo, người cầu đạo cần phải mắt nhìn ngọn đèn Phật, khiến cho sức chú ý của người cầu đạo tập trung nơi ngọn đèn Phật, dựa vào ánh đèn nhiếp lấy tạp niệm, an tâm, như vậy vọng tâm tự nhiên chẳng sanh, tạp niệm tự nhiên chẳng khởi, từ tâm tán loạn mà đi đến sự chuyên tâm, khiến cho người cầu đạo tiến vào cảnh giới sinh mệnh vô tư vô vi. Lúc truyền đạo, vị truyền đạo sư đại biểu cho Thiên Mệnh Minh Sư dùng nhang truyền chỉ dẫn xuống một đường kim tuyến từ ngọn đèn Vô Cực, miệng niệm “ trước mắt chính là Chơn Dương Quan … ”, khai ngộ rằng con người là từ bổn thể Vô Cực mà đến, nên từ đường kim tuyến này mà quay về thì mới có thể trở về lại cố hương, bổn thể gốc cội ban đầu.
Truyền Đạo Sư vào lúc người cầu đạo mắt nhìn chằm chằm vào ngọn đèn Vô Cực thì đột nhiên nhanh chóng tiến đến, dùng ngón tay chính giữa hướng gần sát huyền quan, mượn nhờ vào ánh sáng đèn Vô Cực mà điểm phá cửa khiếu sanh tử của chúng sanh, trực chỉ đại đạo thông thiên trở về Vô Cực cố hương, quy căn nhận Mẫu. Từ đấy đã thắp lên sự quang minh sáng ngời nội tại mà mỗi người đều vốn có, đấy là ngọn “ tâm đăng ” vĩnh hằng quang minh xán lạn, sáng mãi không tắt. Dựa theo ngọn tâm đăng quang minh sáng ngời này của Tự Tánh mà hành thì tự có thể trở về cố hương Vô Cực Lí Thiên. Các đệ tử của Tiên Thiên Đại Đạo nên lúc nào cũng bảo vệ gìn giữ nó, làm ngời sáng nó, cũng giống như con mắt nhìn ngọn phật đèn vậy, lúc nào cũng quán soi ngược lại ngọn tâm đăng vô hình ấy, khiến cho nó lúc nào cũng đều quang minh sáng ngời, lúc nào cũng tự thắp sáng ngọn tâm đăng, bất cứ nơi nào cũng đều tu trì trang nghiêm bản thân.
Thắp đèn Phật và cảnh tượng Điểm Truyền Sư truyền đạo truyền thụ tam bảo cũng đã ấn chứng cho sự rửa tội bằng thánh linh và lửa mà trong kinh Thánh đã ghi chép.
Số lượt xem : 1949