Niệm A Di Đà Phật, nguyện vãng sanh Tây Phương, liệu có thể vãng sanh ?
“ Đệ tử thường thấy tăng tục ( người xuất gia và tại gia ) niệm A Di Đà Phật, nguyện sanh Tây Phương, xin hòa thượng nói : liệu có thật sự được sanh về nơi đó chăng ? hy vọng đại sư có thể phá vỡ sự nghi hoặc cho chúng con ” ( Trích Phẩm Nghi Vấn thứ 3, kinh Pháp Bảo Đàn )
Căn cứ cái mà “ Kinh A Di Đà ” nói : “ nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe nói A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu nếu một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, nhất tâm bất loạn, khi người đó lâm chung, A Di Đà Phật và chư Thánh Chúng, hiện ra trước mặt, là lúc nhân chung, tâm không điên đảo, tức được vãng sinh cực lạc quốc thổ của A Di Đà Phật ”.
Trong nguyện thứ 18 của “ Vô Lượng Thọ Kinh ” cũng có ghi nhận “ khi mệnh lâm chung, nếu có thể nhất tâm bất loạn, niệm 10 câu phật hiệu, thì được vãng sanh thế giới cực lạc ”
( “ Thập niệm phật ” cũng cho rằng : là mỗi một niệm mười câu phật hiệu, thập niệm thì là 100 câu phật hiệu )
Ngài Lục Tổ Huệ Năng nói rằng : Phật Thích Ca Mâu Ni trong xá vệ thành nói kinh văn tây phương tiếp dẫn độ hóa, trong kinh nói rất rõ “ mười vạn ức Phật thổ tuy xa, nhưng “ ngộ thì trong chớp mắt ”, cho nên nói “ đi đến đó chẳng xa ”. Nếu dựa trên tướng mà nói, lý số có 10 vạn 8 nghìn, chính là thập ác bát tà trong thân. Chính vì có thập ác bát tà, cho nên mới nói Tây Phương vô cùng xa xôi.
Tại sao đoạn trên vừa mới nói Thế giới Tây Phương cực lạc cách đây đến 10 vạn ức tam thiên đại thiên thế giới, tại sao Tổ Sư ở đây lại nói là “ 10 vạn 8 nghìn ” ( 十萬八千里 )? thật ra cái này là Tổ Sư tùy tục mà nói, dùng để ví von vô cùng xa xôi; mặt khác vừa phối hợp thập ác bát tà. Thập ác là chỉ việc tạo tác của 3 nghiệp : thân, khẩu, ý. Thân có tam ác : Sát, đạo, dâm; Khẩu có tứ ác : Ác khẩu, lưỡng thiệt, vọng ngôn, kỳ ngữ; Ý có tam độc : tham, sân, si.
Bát tà chính là sự tương phản của bát chánh đạo, chính là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà mệnh, tà nghiệp, tà tinh tiến, tà niệm, tà định. Nếu có thập ác bát tà, không bị xuống tam ác đạo thì đã là vô cùng may mắn rồi, làm sao có thể vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới ?
Nếu nói “ xa ” thì thuộc căn cơ thấp, nếu bảo : “ gần ” thì là thượng căn lợi trí.
Căn tánh của người tuy có 2 loại, chính là thượng trí và hạ ngu, còn Phật Pháp thì là không có phân biệt, chỉ do sự bất đồng giữa mê và ngộ, cho nên kiến tánh cũng có sự khác biệt giữa nhanh và chậm.
“ Xa ” là vì trong thân có thập ác ( 十惡 )bát tà ( 八邪 ), nếu muốn vãng sinh thế giới Tây Phương cực lạc thì giống như cách nghìn trùng sông núi, không có thập ác bát tà thì thiên đường ở ngay trước mắt.
Người không hiểu được chân lý, niệm Phật cầu vãng sanh cực lạc tịnh thổ; nhưng người giác ngộ, có thể tự mình tịnh hóa tâm tánh của mình, cho nên Phật nói : “ Tùy theo tâm thanh tịnh của mình, cũng là sự thanh tịnh của Phật thổ ”.
Ý chính là nói : “ Tâm tịnh thì có thể đạt đến tịnh thổ Phật Quốc ”, hoặc nói : “ Tâm tịnh thì lúc đó chính là tịnh thổ Phật Quốc ”. Do vậy, hy vọng vãng sinh Tây Phương cực lạc thế giới là lúc thời khắc còn sống này thì phải thành tựu. Cho nên, kỳ vọng có chỗ thành tựu thì nhất định cần phải hạ công phu trên tâm địa của mình, cho nên nói : “ tâm tịnh phật thổ tịnh ”, tâm không tịnh thì làm sao lại có thể đạt đến Tây Phương tịnh thổ ?
Tuy là người Đông Phương, chỉ cần có thể tâm địa thanh tịnh thì không có tội; nhưng tuy là người Tây Phương, tâm không thanh tịnh thì vẫn là có tội.
Người tu hành nếu không biết phải hạ công phu trên tâm địa của mình, Lục Tổ bèn giả thiết nói : Người Đông Phương tạo tội xong, niệm Phật cầu sanh Tây Phương cực lạc thế giới; vậy người Tây Phương tạo tội xong, nên niệm Phật cầu sanh ở Quốc thổ nào đây ? Người phàm ngu mê không thể liễu ngộ chân lý của tự tánh, không thể biết được trong thân vốn có tịnh thổ, do vậy phát nguyện sinh Đông Phương, sinh ở Tây Phương; người giác ngộ thì dù ở đâu cũng vậy, không có nơi nào chẳng là tịnh thổ. Cho nên Phật nói: “ Tùy theo nơi mà thân ở, có thể thường an lạc ”.
Chỉ cần tâm địa không có niệm đầu bất thiện thì rời thế giới Tây Phương cực lạc chẳng xa. Nếu có tâm niệm bất thiện, niệm Phật cầu vãng sanh cực lạc Tây Phương thế giới, cái đó rất khó mà đạt được.
Nay khuyên các vị thiện tri thức, trước hết trừ đi nghiệp thập ác, cũng như đã đi được 10 vạn dặm đường, sau đó lại trừ đi bát tà, lại đi được thêm tám nghìn dặm. Niệm niệm đều có thể tự thấy chân như bổn tánh, hành vi thường xuyên có thể gìn giữ bình đẳng chánh trực, như vậy thì trong khoảnh khắc của cái búng tay đến được Tây Phương tịnh thổ, bèn có thể thấy được A Di Đà Phật.
Đấy chẳng phải là “ Tây Thiên tuy xa trong chốc đến ” ? Đã đến bèn thấy bổn giác của tự tánh, đó cũng là mục đích sở tại của việc niệm Phật. Nói như thế, A Di Đà Phật lẽ nào không phải là tự mình sao ?
Chỉ cần có thể hành thập thiện, cần gì lại phải ngoài ra phát thêm nguyện vãng sanh tịnh thổ ? Bởi vì trước mắt chính là tịnh thổ, nếu không đoạn tâm của thập ác, lúc mệnh lâm chung, làm gì có vị phật nào đến đón mời vãng sanh tịnh thổ ?
Nếu có thể đốn ngộ, khế nhập tất cả vạn pháp vốn không sanh không diệt, đạt đến cảnh giới cứu cánh niết bàn, nhìn thấy thế giới cực lạc chỉ trong nháy mắt; nếu không thể chứng ngộ vô sanh đốn pháp, mà niệm Phật cầu sanh cực lạc tịnh thổ, vậy thì đường đi xa xôi, làm sao có thể đạt được tâm nguyện vãng sanh tịnh thổ ?
Ở đây, có thể rất rõ ràng thấy được, Lục Tổ khẳng định có Tây Phương cực lạc tịnh thổ. Tây Phương tịnh thổ, do các chúng sanh mà tiếp dẫn có sự khác biệt về mặt đối tượng, phân làm Phàm Thánh đồng cư thổ, phương tiện hữu dư thổ, thật báo trang nghiêm thổ và thường tịch quang tịnh thổ.
Phàm phu thì vãng sanh sống ở Phàm Thánh đồng cư thổ
Hàng nhị thừa vãng sanh sống ở phương tiện hữu dư thổ
Nếu minh tâm kiến tánh, ngộ được vô sanh đốn pháp thì sống ở thật báo trang nghiêm thổ
Thường tịch quang tịnh thổ thì là tánh thổ.
Pháp môn niệm Phật tịnh thổ, nếu có thể niệm đến nhất tâm bất loạn, thì như là minh tâm kiến tánh của thiền tông, cũng là ngộ vô sanh đốn pháp. Đến cảnh giới này, nếu vãng sanh Tây Phương, thì sống ở thật báo trang nghiêm thổ
Nếu như vẫn chưa nguyện vãng sanh, tuy sống ở thổ này, tâm cảnh không khác tây Phương tịnh thổ. Từ đây có thể biết, Lục Tổ dựa vào thân phận Tổ Sư của pháp môn đốn giáo, ở đây khích lệ những người niệm Phật : không niệm Phật vãng sanh thì thôi, muốn niệm Phật thì phải niệm đến “ Lý nhất tâm bất loạn ”, đấy chính là ý thú vị của Tổ Sư thuyết pháp.
Lục Tổ nói : “ Các vị, sắc thân bản thân người đời giống như một tòa thành, mắt, tai, mũi, lưỡi thì giống như cửa thành. Cùng với thân thể mà nói, bên ngoài có 5 cánh cửa, bên trong có một cửa ý.
“ Tâm ” ví như đất ở trong thành, “ tánh” làm chủ, ví như quốc vương phát hiệu tư lệnh, tánh vương sống ở trên mảnh đất tâm. Tánh ở trên mảnh đất tâm thì là có Vua tồn tại, tánh rời khỏi mảnh đất tâm thì vua cũng không còn tồn tại.
Cho nên, nếu tánh tại thì thân tâm cũng tồn tại, nếu tánh đi thì thân tâm cũng bại hoại.
“ Phật hướng tánh trung tác, mạc hướng thân ngoại cầu ”. Tự tánh mê thì là chúng sinh, tự tánh giác thì là Phật.
Phải biết được bất luận là học Phật hay học đạo đều là học bên trong, cái gọi là : đạo ở nơi tự thân, ngoại thân không có đạo ”
Lục Tổ chỉ rõ cho chúng ta biết : then chốt sở tại của thành phật, phải từ trong cái chân như bổn tánh mà đi giác ngộ thành tựu, tuyệt đối không nên hướng ra bên ngoài mà truy cầu ! Tự tánh mê thì là chúng sinh, tự tánh giác ngộ thì là Phật. Cho nên sự khác biệt giữa chúng sanh và Phật là giữa mê và ngộ mà thôi.
Từ bi tức là Quán Âm, hỷ xả gọi là Thế Chí, có thể tịnh tức là Thích Ca, Bình trực tức là Di Đà
“ Quán Thế Âm Bồ Tát ” mang tinh thần đại từ đại bi, quán sát hoặc lắng nghe được khổ nạn của chúng sanh bèn đi đến cứu bạt, nếu chúng ta có thể tồn niệm từ bi trong tâm thì giống như Quán Âm Bồ Tát vậy.
“ Đại Thế Chí Bồ Tát ” đối với mọi chúng sanh có thể bình đẳng hoan hỷ mà bố thí; nếu tâm chúng ta có thể tồn bình đẳng hoan hỷ mà bố thí cho tất cả chúng sanh thì giống như Đại Thế Chí Bồ Tát.
“ Thích Ca ” là năng nhân “ Mâu Ni ” là tịch mặc thanh tịnh; Thích Ca Mâu Ni chính là tu thanh tịnh nhân từ, công đức viên mãn mà thành tựu Phật đạo; nếu tâm có thể tồn nhân từ và thanh tịnh vô nhiễm, thì giống như Thích Ca Mâu Ni.
“ A Di Đà ” là tiếng phạn, phiên dịch sang nghĩa tiếng hoa là Vô Lượng. A Di Đà Phật dựa vào tâm thẳng thắn bình đẳng vô lượng, phát 48 nguyện, thành tựu Tây Phương cực lạc tịnh thổ; nếu tâm có thể thẳng thắn thì cũng giống như A Di Đà Phật vậy.
Danh hiệu của Chư Phật Bồ Tát là tông chỉ giáo hóa chúng sanh của họ, niệm danh hiệu của họ, mục đích là nhắc nhở chúng ta noi theo tinh thần của Phật, Bồ Tát. Mặc niệm ngũ tự chân ngôn, nên noi theo tinh thần của Tổ Sư, chân tánh bộc lộ, “ bụng lớn có thể dung chứa tha thứ ”, “ lòng tràn ngập hoan hỷ ” mà từ bi yêu thương tất cả chúng sanh.
Nhân ngã chấp, pháp ngã chấp thì giống như núi Tu Di vậy, sẽ làm chướng ngại chánh đạo thành Phật.
Tà tâm ( trong lòng khơi dậy tâm niệm bất chánh ) thì giống như nước biển hung dũng vậy.
Vô minh phiền não thì giống như từng cơn sóng lại từng con sóng nhấp nhô lên xuống bất định, khiến cho tự tâm không cách nào bình tĩnh. Nếu tồn tâm độc hại người khác, vậy thì giống như con ác Long hung mãnh.
Tâm địa hư vọng không thật thì là “ quỷ thần ”.
Vì phàm tục mà cạn kiệt thân tâm, ô nhiễm thân tâm thì là trần lao, nếu thường ở trần lao thì giống như “ cá mang mai rùa ” vậy, suốt ngày bơi trong nước không ngừng.
Tham, sân, si khiến cho con người phiền nộ bất an, thường tạo ác nghiệp, giống như sống trong địa ngục vậy.
Ngu si không có trí tuệ thì giống như “ súc sinh ”.
Thiện tri thức ! thường hành thập thiện, giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp thanh tịnh, có thể đến được thiên đường ngay lúc đó; trừ bỏ đi nhân ngã chấp, pháp ngã chấp, thì những trở ngại cao như núi Tu Di cũng phải sụp đổ. Trừ bỏ đi tà tâm thì nước biển hung dũng sẽ khô kiệt. Phiền não chẳng còn thì sóng tiêu diệt mà khôi phục lại bình tĩnh. Trừ bỏ đi tâm độc hại thì Ngư Long bèn diệt tuyệt.
Như vậy, Giác tánh Như Lai từ trên tâm địa của mình tự nhiên hiện ra trí tuệ quang minh, bên ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh vô nhiễm, có thể phá được dục nghiệp của lục thiên dục giới.
Tự tánh nội chiếu, tam độc tức trừ, địa ngục đẳng tội, nhất thời tiêu diệt.
Tam độc chính là tham, sân, si; tham là cái nhân của ngạ quỷ, sân là cái nhân của địa ngục, si là cái nhân của súc sanh.
Nếu có thể hồi quang phản chiếu, tự tánh thanh tịnh, tam độc không nảy sinh từ chỗ nào thì tội nghiệp của tam ác đạo như địa ngục cũng vào lúc nhất tâm mà đồng thời tiêu diệt.
Trong không có tam độc, ngoài không nhiễm lục trần, trong và ngoài đều quang minh thấu triệt thì không gì khác so với Tây Phương tịnh thổ.
Nếu không dựa vào như thế mà tu hành thì làm sao có thể đến được thế giới Tây Phương cực lạc ?
Cái gọi là “ Đạt Ma Tây Lai nhất tự vô, toàn bằng tâm ý dụng công phu ”; Sư Tôn cũng nói : “ tu đạo tu tâm ”, mọi người nhất thiết phải ghi nhớ kỹ, đừng nên tâm ngoài cầu pháp để tránh đi lạc vào con đường sai lầm.
Lục Tổ : “ Thiện tri thức ! nếu muốn học Phật tu hành, tại gia cũng có thể làm được, không nhất định phải xuất gia tại chùa. Người tại gia nếu có thể cần cù tinh tiến dựa theo pháp mà tu hành thì giống như tâm địa người Đông phương lượng thiện; tuy xuất gia sống ở trong chùa, nhưng không thể dựa theo Pháp mà tu hành thì cũng giống như người Tây Phương tâm tồn niệm ác. Chỉ cần tâm địa thanh tịnh, thì là Tây Phương tự tánh.
Hai chữ “ thanh tịnh ” là tông chỉ sở tại của việc tu học, bất kỳ một pháp môn nào, muốn phán đoán nó là chánh hay tà thì dựa vào tiêu chuẩn này; nếu lấy “ thanh tịnh ” làm tông chỉ thì là chánh, không lấy thanh tịnh làm tông chỉ thì là tà. Nếu đã như thế, nếu muốn luận một người tu học có thành tựu hay không thì phải xem tâm thanh tịnh hay không thanh tịnh; về việc tu tại gia hay tu xuất gia là không quan trọng.
Số lượt xem : 1454