Đức Tín
Đức Phật xưa từng bố thí đầu
Gương sáng giữ tín nguyện hành sâu
Quân tử nhất ngôn hơn vạn lượng
Trọng hơn sinh mệnh phải đùa đâu !
Một lời xuất muôn ngựa khó đuổi
Quân tử duy dụng tín kết giao
“Tín thống tứ đoan, kiêm muôn thiện ”
“ Vô tín bất lập ” nên cẩn ngôn.
Thánh nhân quân tử trọng giữ tín
Mỗi lời chân thật chẳng vọng ngôn
Từ tâm chân thật không hư vọng
Hiển đức tôn quý, vạn cổ truyền.
Chơn quân tử, người học tu đạo
Noi theo Thánh Phật trọng tín ngôn
Lập nguyện liễu nguyện, hành chân thật
Nghịch cảnh bất thối, chẳng vọng ngôn.
Thế gian mạt pháp mấy ai trọng
Đức tín đi đầu trong giao thiệp ?
Bao điều nguyện trước Phật đã lập
Mấy ai y lời chơn hành liễu !
Hứa thật nhiều, thất hứa thật nhiều
Giá trị lời nói còn bao nhiêu ?
Như nhóc chăn cừu hô “sói đến !”
Ai còn tin tưởng cứu cừu yêu ?
Người xưa từ trong quá trình trời đất tạo thành vạn vật, nhận ra đặc tính không ngừng vươn lên của vạn vật trong đất trời, liền lấy đặc tính đó gọi là “诚”(Thành). Từ đó mở ra chuẩn mực hành vi cho con người: “Thị cố thành giả, thiên chi đạo dã; tư thành giả, nhân chi đạo dã” (nguồn gốc sự thành tín, là đạo của trời; thành tín của cá nhân, là đạo của con người). Chỉ ra con người ứng với sự thành tín mà tương thông với đạo trời.
“信”(Tín) theo kết cấu tạo chữ, “lấy lời nói của con người làm tin”, những luận thuật liên quan đến chữ tín có “Nhất nặc thiên kim” (Một lời hứa đáng giá nghìn vàng), “Ngôn tất tín, hành tất quả” (Lời nói nhất định phải thành thật, làm nhất định phải có kết quả), “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” (Một lời đã nói, bốn con ngựa cũng khó đuổi kịp) …
Khổng Tử dạy học trò thái độ đối với việc học tập là: “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri” (Biết thì nói biết, không biết thì nói không biết). Biết thì nói biết, không biết nói không biết, thế mới thật sự là biết; không tự cho mình là đúng, luôn khiêm tốn, lời nói phải đi đôi với việc làm.
Trong “Luận Ngữ” Khổng Tử nhiều lần đề cập chữ Tín khi đàm luận về đạo đối xử giữa người với người: “Vi nhân mưu nhi bất trung hồ?” (Làm tham mưu mà bất trung sao?), “Dữ bằng hữu giao nhi bất tín hồ?” (kết giao với bạn mà không thật lòng ư?), “Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã. Đại xa vô nghê, tiểu xa vô nguyệt, kỳ hà dĩ hành chi tai?” (Người mà không thành tín, không biết người đó còn có chỗ nào được. Xe ngựa không có nghê, xe đẩy không có chốt, làm sao có thể chạy được?). Người không thành thật thì không nên người, không thể dùng. Người không thành thật giữ tín thì chẳng có chỗ đứng trong lòng người.
Trích Dẫn Phẩm thứ hai mươi sáu : BỐ THÍ ĐẦU trong kinh Hiền Ngu
A Nan ông nên biết! Đời quá khứ đã lâu lắm, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Chiên Đà Bà La Tỳ (Tàu dịch là Nguyệt Quang) thống lãnh tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám muôn ức tụ lạc, ông có hai muôn phu nhân và thể nữ, bà thứ nhứt tên là Tu Ma Đàn (Tàu dịch là Hoa Thị), một vạn quan đại thần, ông quan lớn nhất tên là Ma Chiên Đà (Tàu dịch là Đại Nguyệt), năm trăm Thái tử, người thứ nhất tên là Thi La Bạt Đà (Tàu dịch là Hiền Thọ).
Thành ấy ngang dọc bốn trăm do tuần, làm thuần bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, bốn mặt có bốn trăm hai mươi cửa, đường sá thành phố trang nghiêm. Trong nước ấy có bốn hàng cây bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, cành vàng lá bạc, hoặc pha lê lá lưu ly. Những hồ ao bằng bốn thứ trân bảo, cát dưới lòng ao bằng bốn thứ bảo nói trên. Trong cung nhà vua chu vi bốn mươi dặm, làm thuần bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê. Thời đó nước giàu dân mạnh, an vui sung sướng!
Một hôm vua ngồi trên bảo điện thốt nhiên nghĩ như vầy: Người ta ở trên đời tôn vinh hay phú quý, thiên hạ kính nể muốn gì được nấy cũng do quả báo tích đức tu thiện đời trước đem lại. Cũng ví như kẻ nông phu, mùa Xuân mất công cày bừa gieo mạ cấy lúa, tới mùa Hạ, mùa Thu gặt hái được thóc gạo đem về ăn uống. Nếu mùa Xuân họ không mất công cày cấy, dĩ nhiên mùa Hạ, mùa Thu không gặt hái thu hoạch được.
Ta cũng thế, đời trước tu phúc lành, đời nay hưởng quả tốt, nếu bây giờ ta không tiếp tục tu theo, đời sau lấy gì an hưởng?
Nghĩ rồi bảo các quan đem tiền của ở trong kho ra bố thí, và sắc lệnh cho tám vạn bốn ngàn ông vua, cũng phải mở kho bố thí cho dân.
Khi đó các ông vua phải tuân theo mệnh lệnh, thông cáo cho toàn cõi biết.
Ngày phát chẩn nhân dân kéo nhau đến Kinh thành đông như kiến cỏ, kẻ mạnh cõng người yếu, kẻ sáng dắt người mù, ai nấy đều được nhà vua phân cấp tiền gạo, áo quần đầy đủ, từ đó muôn dân được an vui sung sướng. Danh đức lừng lẫy, tiếng khen đồn khắp bốn phương.
Thuở đó có một ông vua nước nhỏ ở bên cạnh, tên là Tỳ Ma Tư Na, thấy nhân dân ca tụng và cảm phục vua Nguyệt Quang, đem lòng ghen ghét, ngày quên ăn, đêm quên ngủ, ông thầm nghĩ như vầy:
- “Nếu ta không dùng mưu tiêu diệt được Nguyệt Quang, có lẽ danh tiếng của ta không bao giờ hiển đạt! “
Nghĩ xong ông triệu tập các thầy Bà La Môn trong nước đến, cúng dàng ba tháng rất trịnh trọng, xong ba tháng ông nói với các vị rằng:
- Thưa quý giáo sĩ! Tôi có một việc đáng lo! Đến nỗi ngày quên ăn, đêm mất ngủ, quý Ngài có phương tiện gì giải quyết hộ?
Thầy Bà La Môn hỏi:
- Tâu Bệ Hạ! Có việc chi xin nói cho chúng tôi rõ, nếu giúp được chúng tôi xin hết sức.
- Thưa quý Ngài! Hiện nay vua Nguyệt Quang muôn phương mến phục, phúc đức lớn lao! Dĩ nhiên có sự lo lớn cho tôi sau này! Quý Ngài có thần phép gì tiêu diệt ông đó hộ?
- Tâu Bệ Hạ! Vua Nguyệt Quang là người có đức lớn, thương dân như con, dân coi vua như cha mẹ, chúng tôi nỡ đem tâm gì để mưu hại, thà chịu chết chứ không nỡ hại người hiền.
Nói xong mấy ông đều xin cáo thoái.
Vua Tỳ Ma Tư Na rất bực mình, liền hạ chiếu cho toàn quốc biết:
- “Nếu ai lấy được đầu vua Nguyệt Quang tôi sẽ gả con gái, và phân nước cho một nửa để cai trị!”
Khi đó có một người dòng Bà La Môn tên là Lao Độ Sai, ở núi Hiếp, đến xin đi lấy đầu vua Nguyệt Quang, nhà vua vui vẻ nói:
- Nếu khanh làm được việc này, ta sẽ giữ lời hứa và định đến hôm nào đi, xin cho biết.
Lao Độ Sai nói: - Xin khất Bệ Hạ bảy ngày nữa.
Nói xong từ tạ ra về, về nhà nhập thất bảy ngày, trì chú hộ thân.
Qua bảy ngày, đến cung vua, nhà vua cung cấp lương thực tiền lộ phí, khi bước ra đi cương quyết nói:
- Xin Bệ Hạ chớ lo! Tôi thề rằng: Nếu không lấy được đầu vua Nguyệt Quang, quyết không về, cam đoan thế nào cũng lấy cho bằng được!
Khi đó trong nước vua Nguyệt Quang có những điềm bất tường xuất hiện:
- Động đất.
- Chớp giật, tinh rơi, sấm động.
- Ban ngày sương khói kéo mờ mịt.
- Sao chổi mọc.
- Mưa đá, sét đánh tứ tung.
- Các loài chim kêu rất thảm thiết ở hư không, và nó tự nhổ lông cánh rơi đầy mặt đất.
- Hổ, Báo, Sài, Lang, tự đâm mình xuống hố, hoặc kêu gào thảm khốc.
- Tám vạn bốn ngàn ông vua nước nhỏ đều mộng thấy cành phướn vàng của nhà vua, bị gẫy, trống vàng vị thủng.
- Ông vua Đại Nguyệt mơ thấy quỷ lại cướp mũ vàng của vua mang đi.
Thấy điềm bất tường biến hiện, bá quan văn võ đều lo.
Khi đó ông thần coi thành biết Lao Độ Sai đến xin đầu vua. Ông hóa phép làm cho mơ màng không biết lối vào, cứ đi lẩn quẩn bên ngoài thành.
Ông trời Tịnh Cư thấy thế báo động cho nhà vua hay rằng:
- Bệ Hạ làm hạnh bố thí, hiện có người đến xin, đương ở bên ngoài thành mà không được vào.
Nhà vua thức dậy ngạc nhiên rồi gọi ông Đại Nguyệt vào:
- Ông ra ngoài cổng thành, cấm không được ai ngăn giữ người nào vào xin.
Đại Nguyệt ra cổng thành, nhìn ngơ ngác không thấy ai là người ngăn cấm cả. Khi đó ông thần coi thành hiện lên nói rằng:
- Thưa Đại Thần! Hiện có một người dòng Bà La Môn, ở nước khác đến xin đầu vua, vì thế nên tôi không cho vào.
- Nếu quả như vậy, là một tai hại lớn, xong vua đã ra lệnh chúng ta không được trái ý.
Theo lời ông Đại Nguyệt nói, nên ông thần tha cho Lao Độ Sai. Đại Nguyệt thầm nghĩ rằng:
- Nếu kẻ này xin đầu vua, thì ta dự lấy năm trăm đầu bằng thất bảo, về đặt thợ làm.
Lao Độ Sai như người tỉnh giấc mơ, bước vào cung vua lớn tiếng nói:
- “Tôi ở nơi xa nghe biết nhà vua làm hạnh bốt thí, ai muốn xin gì cũng cho, tôi tới đây xin một việc rất khó.”
Nhà vua thấy người có vẻ ngỗ nghịch, ăn nói thô lỗ biết rằng kẻ này thử thách ta mừng thầm! Tự đứng dậy ra đón chào, và hỏi thăm từ đâu tới, và đi đường có đỡ mỏi mệt không, rồi hỏi:
- “Ngài muốn dùng gì xin cứ nói, dầu khó khăn đến đâu, nếu có thể tôi xin biếu Ngài!”
Lao Độ Sai nói: “Ngài bố thí tiền, của, thức ăn, cho đến mọi vật, tuy có phúc báu nhưng chưa lớn bằng phúc bố thí vật trong thân mình. Vậy tôi chỉ xin cái đầu của nhà vua, có thể được xin cho biết?”
Nhà vua nói: - “Dạ! Xin vui lòng biếu Ngài một cách thành thực.”
- Ngài cho tôi bây giờ, hay ngày nào?
- Dạ! Xin khất Đại Đức bảy ngày nữa.
Vừa lúc đó ông Đại Nguyệt đem năm trăm cái đầu thất bảo đến, đấm tay vào ngực nói với Lao Độ Sai rằng:
- Đầu vua bằng xương thịt, huyết máu hợp thành, hôi thối và là vật bất tịnh nhơ bẩn, bác xin làm chi? Bác lấy đầu thất bảo này mang về có thể sung sướng suốt đời.
- Thưa Ngài đầu thất bảo tôi cũng không thiếu, chỉ thiếu đầu vua mới đến đây.
Thấy Lao Độ Sai ương ngạnh quá, nói không vào, ông dịu giọng năn nỉ thì dỗ rất ngọt ngào. Song Lao Độ Sai quyết định không nghe.
Ông phẫn uất quá, quả tim nổ thành bảy miếng, chết liền trước mặt nhà vua.
Khi đó nhà vua và triều thần văn võ thương ông quá! Mọi người đều sa nước mắt! Và thu xếp làm lễ an táng cho ông.
Xong việc an táng cho ông Đại Nguyệt, nhà vua sai các quan cỡi voi đi tám ngàn dặm báo cáo cho trong nước biết rằng:
- “Quốc dân nên biết, vua Nguyệt Quang thực hành bố thí, trước đây phân cấp cho nhân dân các món ăn dùng, bây giờ có tên Lao Độ Sai ở nước khác đến xin đầu, Ngài quyết định bố thí cho thành đại nguyện, vậy để quốc dân được rõ.”
Được tin như vậy, ai cũng buồn, tám vạn bốn ngàn vua nước nhỏ, khi tới đủ đều tâu với vua rằng:
- Tâu Bệ Hạ! Tất cả Châu Diêm Phù Đề nhờ đức độ của Ngài được mưa hòa gió thuận, thái bình thịnh trị, cây cỏ xinh tươi, mùa màng lúa tốt, no nê sung sướng, thóc gạo ngon thơm, muôn dân an lạc. Tại sao Ngài vì một người mà không thường tất cả muôn phương?
Một vạn quan Đại thần đồng thanh nói:
- “Xin Bệ Hạ miễn bỏ việc bố thí đầu, chưa từng thấy có sự quái lạ như vậy! Bây giờ Ngài nghe một kẻ khốn nạn, dở hơi để lũ chúng tôi buồn bực!”
Hai muôn bà phu nhân và năm trăm Thái Tử, gieo mình xuống đất khóc lóc! Xin vua miễn bỏ việc bố thí đầu, nhưng nhà vua vẫn khoan hòa nét mặt an ủi nói:
- “Xin các vương hầu khanh tướng, hãy bình tĩnh nghe tôi nói, con người vì kết buộc tình ân ái từ kiếp vô thủy, nên chịu ách sinh tử lâu dài, chưa thấy ai đã thực hành bỏ được, nhất là yêu tiếc bản thân. Xét rằng từ vô biên kiếp đến nay, sống chết đã bao đời không tả xiết, lúc ở trong địa ngục, một ngày bỏ thân vô số, chết trong nước sông phân, nằm sắt, ôm cột đồng, ngâm mình trong nước phân sôi, khi ngồi trên xe lửa, khi nằm dưới hố than. Còn nhiều địa ngục không kể, bị đau khổ vô cùng không nói hết, thì những thân ấy đã bỏ đi nhiều vô hạn lượng lại không có phúc báu gì.
Khi làm loài súc sinh bị loại người chém giết, thịt nát xương tan, thì những thân ấy toàn là vô phúc đọa lạc.
Khi làm loài quỷ đói, lửa trong mình phát ra, hoặc vòng dao lửa bay tới chém thân chặt đầu, chết đi sống lại vô số, những thân ấy đều không có phúc báu, nên bị đọa đày.
Khi ở nhân gian vì lòng tham giận tàn sát lẫn nhau, cũng do tài sắc kết buộc, những thân ấy bị chết rất nhiều, hoàn toàn không làm được một chút chi cho bản giác.
Hiện tại thân tôi đây toàn thị nhơ bẩn, rồi một ngày kia cũng bị tiêu không, tôi bỏ cái đầu nhơ uế xấu xa này, để đổi lấy pháp thân thường, lạc, ngã, tịnh, an vui vô cùng kiếp! Hơn nữa tôi còn có thể đem lợi ích cho toàn thể đời vị lại, phải nhìn xa, phải trông rộng, không cục hạn mặt cái thân hèn mọn bé nhỏ này, có lợi ích lớn như thế, can tôi làm chi. Tôi bố thí cái đầu này để cầu thành Phật, sau khi thành tôi sẽ độ thoát cho lũ các ông qua khỏi nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, được an vui giải thoát đời đời, ngăn cản đạo tâm vô thượng của tôi làm chi?”
Tất cả mọi người nghe nhà vua giảng thuyết vừa xong ai nấy đều phải nín thinh, không dám trả lời sao hết.
Nhà vua thấy quần chúng đã an tâm, ngoảnh bảo Lao Độ Sai rằng:
- Bây giờ ta cho nhà ngươi được tự do lấy đầu.
Lao Độ Sai đáp: - Tâu Bệ Hạ, hiện tôi có một mình, lực yếu thế cô, chung quanh vua quan dân chúng nhiều, nếu nhà vua có cho, xin ra hậu viên, nơi vắng, chỉ riêng một mình tôi với nhà vua mà thôi, thì mới dám chặt đầu.
Nhà vua tuyên bốt với đại chúng rằng:
- Tất cả các ông có yêu tôi! Kính tôi, xin chớ làm hại Lao Độ Sai.
Nói xong cùng Lao Độ Sai ra hậu viên.
Lao Độ Sai nói:
- Sức vua hùng tráng khỏe mạnh, cắt đầu đau đớn, lúc đó lại hối tiếc thì sao? Vậy nhà vua hãy lấy dây buộc cổ treo lên cành cây để tôi cắt cho dễ.
Nhà vua ngồi dưới gốc cây to lớn, lấy tóc buộc và thân cây nói rằng:
- “ Ông cắt đầu xong để lên trên bàn tay tôi, tôi dâng biếu ông.”
Chắp tay kính cẩn nguyện rằng:
- “Kính lạy thập phương tam thế Hùng Sư, nguyện công đức này không cầu làm Phạm Vương, Ma Vương, Đế Thích, Chuyển Luân Thánh Vương để vui sướng ở ba cõi, con xin cầu thành Phật, độ chúng sinh, đưa dắt muôn loài đến cõi Niết Bàn an lạc.”
Lao Độ Sai vừa giơ dao lên chém, trên cây có ông Thụ Thần, chỉ ngón tay vào đầu làm cho Lao Độ Sai rời rụng chân tay vất dao xuống đất, mê mệt ngã quay lơ.
Nhà vua ngửa mặt bảo Thụ Thần rằng:
- “Thụ Thần ông nên biết, từ đời quá khứ tới nay, dưới gốc cây này, tôi đã bố thí chín trăm chín mươi chín cái đầu, hôm nay bố thí cái nữa, là đủ ngàn. Đối với nguyện bố thí của tôi đã sắp được hoàn toàn, ông đừng làm rắc rối nữa, cản trở đạo tâm bố thí của tôi làm chi!”
Ông Thụ Thần nghe vua nói xong, liền buông thả Lao Độ Sai được bình phục như cũ.
Thoát ách ông Thụ Thần làm ám ảnh, Lao Độ Sai đứng dậy múa dao chém ngang cổ vua một nhát rất mạnh, đầu rơi vào tay, nhà vua kính cẩn dâng lên biếu Lao Độ Sai.
Ngay giờ phút này, trời đất đều chấn động, các cung điện trên thiên cung nghiêng ngã, các ông thiên tử không biết điềm tướng gì, ngó cõi nhân gian, thấy một vị Bồ Tát vì chúng sinh bố thí đầu, đều bay xuống xem, cảm động quá! Rơi lệ như mưa, lại khen rằng:
- “Bồ Tát, Ngài làm hạnh xuất tục siêu phàm, chưa từng ai dám cả gan làm hạnh bố thí được như Ngài, vô cùng tận chúng sinh đều phải thán phục, sự thực hành vô ngã tướng này.”
Vua Tỳ Ma Tư Na sau khi hay tin Lao Độ Sai đã lấy được đầu trở về nước vui mừng quá! Vì sức vui lên cực độ nổ tim chết.
Lao Độ Sai xách đầu ra về, vua quan dân chúng, phu nhân Thái tử nhìn thấy đều lăn đùng ra đất, gảo khóc! Có người cảm thương quá thổ quyết chết! Có người đứng ngay đơ không biết gì, các bà dứt tóc ra từng mảnh, người xé quần xé áo, người cào mặt be bét, máu chảy đầm địa, lăn lộn trên mặt đất!
Lao Độ Sai đem đầu đi được mấy hôm, thấy hôi thối ghê tởm, vất xuống đạp lên trên mà đi, nhân dân thấy, họ la mắng dữ dội. Anh là kẻ bất lương, ác độc, không dùng xin làm chi, đi tới đâu họ cũng nguyền rủa chửi mắng, họ lại ngăn cấm không được ai cho ăn, nên anh chịu nhịn đói, nửa đường gặp người quen, anh hỏi thăm vua Tỳ Ma Tư Na họ đáp rằng: "Nhà vua mừng quá nổ tim chết".
Lao Độ Sai buồn quá, vỡ tim chết liền. Hai người đều phải vào địa ngục A Tỳ Nê Lộ, còn những người vì thương vua mà chết, nên được sinh thiên.
Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:
- A Nan! Ông nên biết vua Nguyệt Quang thuở đó chính là tiền thân của ta, vua Tỳ Ma Tư Na nay là Ma Ba Tuần, Lao Độ Sai nay là ông Điều Đạt, ông Thụ Thần nay là ông Mục Kiền Liên, ông quan Đại Nguyệt nay là ông Xá Lợi Phất. Thời bấy giờ ông không nỡ thấy ta chết, mà ông tự chết trước, cho đến ngày nay ông cũng không nỡ nhìn thấy ta vào Niết Bàn mà ông nhập trước đấy thôi.
Tôi cùng tất cả đại chúng nghe Ngài nói xong, vừa thương Phật vừa cảm tấm lòng nhiệt thành của ông Xá Lợi Phất, có thủy chung với Phật, đồng thanh tán thán công đức rất nhiều, ai nấy đều phát tâm hiếu kính, nên có người đắc sơ quả, đến tứ quả, có người phát tâm vô thượng, tạ lễ mà lui.
Số lượt xem : 1256