BẠCH DƯƠNG KỲ - Bạch Dương Tu SĩBạch Dương Kỳ 2002

Huyền Quan Tu Trì Quan( Phần 11 )

Tác giả liangfulai on 2023-03-13 09:55:39
/Huyền Quan Tu Trì Quan( Phần 11 )

慕道虔心仰翠微,玄關寂寂少人知,不求世寶兼名利,始悟無心合道時。

Mộ đạo kiền tâm ngưỡng thuý vi, huyền quan tịch tịch thiểu nhân tri, bất cầu thế bảo kiêm danh lợi, thuỷ ngộ vô tâm hợp đạo thời.

 

出處高麗大藏經第三十五冊,御製緣識。

Xuất xứ : Cao Ly Đại Tạng Kinh quyển 35, Ngự Chế Duyên Thức.


經文慕道虔心仰翠微,玄關寂寂少人知,不求世寶兼名利,始悟無心合道時;故無形像顯教尋,隱秘蹤由自古今,妙法不傅經上字,玄門消息罔知深;浮生好道勿虛忙,鍊藥修行事久長,輕擧不由他假借,一登淸境入仙鄕。

 

Kinh văn : mộ đạo kiền tâm ngưỡng thuý vi, huyền quan tịch tịch thiểu nhân tri, bất cầu thế bảo kiêm danh lợi, thuỷ ngộ vô tâm hợp đạo thời; cố vô hình tượng hiển giáo tầm, ẩn bí tung do tự cổ kim, diệu pháp bất truyền kinh thượng tự, huyền môn tiêu tức võng tri thâm, phù sanh hảo đạo vật hư mang, luyện dược tu hành sự cửu trường, khinh cử bất do tha giả tá, nhất đăng thanh cảnh nhập tiên hương.

 

Giải thích nghĩa của kinh văn :

 

Ngự Chế Duyên Thức Ngữ Lục là vị Tiền Hiền Triệu Quýnh của Triều Tống, dùng danh nghĩa của Thái Tông Hoàng Đế để xuất bản, thu lục trong Cao Lu Đại Tạng Kinh quyển 35 ấn chứng rằng tu đạo phải cung thỉnh Thiên Mệnh Minh Sư mở ra khoá vàng huyền quan, mới có thể minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, vô cùng tôn quý và thù thắng, nội dung như sau : 慕道虔心仰翠微mộ đạo kin tâm ngưỡng thuý vi )những người có duyên ngưỡng mộ việc tu đạo, dùng tâm vô cùng thành khẩn, hy vọng đến núi Thuý Vi tìm bái Minh Sư, cầu đạo tu hành.

 

玄關寂寂少人知huyền quan tịch tịch thiểu nhân tri ) : phỏng cầu Thiên Mệnh Minh Sư, cầu đạo tu hành, quan trọng nhất chính là phải cung thỉnh thiên mệnh minh sư mở ra khoá vàng huyn quan. Bởi vì chỗ của khoá vàng huyền quan vô cùng tĩnh lặng bí ẩn, nếu không có chỉ điểm của Thiên Mệnh Minh Sư thì trên thế gian rất ít người có thể biết đến.

 

不求世寶兼名利bất cầu thế bảo kiêm danh lợi ) người có căn cơ, duyên phận, tổ đức sẽ truy cầu nơi kí thác của linh tánh chứ không đi truy cầu khó báu và danh lợi ân ái của thế gian.

 

始悟無心合道時( thuỷ ngộ vô tâm hợp đạo thời ) : Loại người tu hành này căn cơ rất tốt, từ lúc bắt đầu đã biết rằng tu hành phải dùng cái sơ phát tâm không chấp tướng, tích cực tu bàn mới có thể hợp nhất với đạo, quy căn phục mệnh.

 

故無形像顯教尋cố vô hình tượng hiển giáo tầm ) : cho nên người tu hành phải thể ngộ bổn tánh vô hình vô tướng, nhưng lại có thể chế ngự thị thính ngôn động ( nhìn, nghe, nói, hành động ) của chúng sanh, hiển thị ra sự thần kì và ảo diệu của Thánh Giáo Huyền Quan. Người tu hành có thể truy tầm Thánh Giáo Huyền Quan, là then chốt quan trọng của đắc đạo, thành đạo.

 

隱秘蹤由自古今ẩn bí tung do tự cổ kim ) Thánh giáo huyền quan là bí mật tâm pháp của tông môn truyền thụ xuống, từ Phật Thế Tôn bắt đầu, đến nay chẳng có gì thay đổi.

 

妙法不傅經上字diệu pháp bất truyền kinh thượng tự ) từ xưa đến nay, thiên cơ không thể tiết lộ, cho nên Bát Nhã Diệu Pháp chẳng dễ gì tuỳ tiện truyền thụ, chẳng giống với văn tự trên kinh điển.

 

玄門消息罔知深Huyền môn tiêu tức võng tri thâm ) : khoá vàng huyền quan là cánh cửa ra vào của linh tánh, nếu chưa gặp được điểm truyền của thiên mệnh minh sư, chúng sanh chẳng biết gì, chẳng biết nó là con đường quang minh chân thật về trời, bởi vì huyền quan bảo tạng vô cùng thâm ảo và huyền bí.

 

浮生好道勿虛忙( phù sanh hảo đạo vật hư mang )Chúng sanh trên thế gian, tuy vô cùng hiếu đạo, nhưng hy vọng là không nên tu kiểu mù, bận bịu uổng công, lãng phí thời gian vô ích.

 

鍊藥修行事久長luyện dược tu hành sự cửu trường ) : Phải nhanh chóng tìm kiếm Thiên Mệnh Minh Sư truyền thụ cho Thánh Giáo Huyền Quan, nghiêm túc tu hành ở nơi bổn tánh, mới là cái đạo vĩnh tồn.

 

輕擧不由他假借」:Chỉ cần nhân duyên thành thục, cung thỉnh thiên mệnh minh sư mở ra khoá vàng huyền quan, cử động nhẹ nhàng thì có thể được Thiên Mệnh Minh Sư thọ kí, không cần mượn nhờ người khác, mới có thể có hiệu quả.

一登淸境入仙鄕Cung thỉnh thiên mệnh minh sư truyền thụ cho Bát Nhã Chánh Pháp chí tôn chí quý, thông qua việc mở ra khoá vàng huyền quan thì có thể minh tâm kiến tánh, bước lên Linh Sơn Thánh Vực, giống như tiến vào Tiên hương Phật địa vậy, tiêu diêu tự tại

 

Diễn nghĩa mở rộng

 

Ngự Chế Duyên Thức là dựa vào danh nghĩa của Tống Thái Tông Hoàng Đế mà phát hành, đương nhiên có vị trí cực kì quan trọng và tôn quý của nó, có sức ảnh hưởng nhất định đối với việc hoằng dương Bát Nhã chánh pháp. Mộ đạo, phỏng đạo, cầu đạo, đắc đạo, học đạo, tu đạo, hành đạo, thành đạo,, liễu đạo…là pháp tắc lẽ đương nhiên không thể thay đổi, người trời ủng hộ, con đường lớn quang minh mà ai cũng tán thành. Mộ đạo chính là ngưỡng mộ việc tu đạo, bởi vì tu đạo thành đạo có thể siêu sanh liễu tử, thoát li nỗi khổ của lục đạo luân hồi, chứng quả thành chân, thành Tiên chứng Phật mà có thể siêu bạt cửu huyền thất tổ cùng chứng cực lạc, cho nên những người có căn cơ, duyên phận, tổ đức sẽ ngưỡng mộ những người tu hành của núi Thuý Vi. Thời cổ xưa trên núi Thuý Vi, linh chi, dị thảo vô số, thơm ngát làm say mê lòng người, Linh Sơn dị vật khắp nơi đều có, có thể nói là Thánh Vực Tiên Cảnh.

 

Núi Thuý Vi của cõi phàm toạ lạc tại chỗ giao giới ( điểm gặp nhau ) giữa quậnThạch Cảnh Sơn thuộc Thành Phố Bắc Kinh và quận Hải Điến, phía trên công viên Bát Đại Xứ ( 八大處公園 ) , từ 7 nơi lên đến đỉnh núi, có câu khắc ở đỉnh, độ cao nhất so với mặt nước biển là 464 mét. Đất này toạ lạc ở phía Đông Nam thành phố Bắc Kinh, cách trung tâm thành phố khoảng 20 km. Thế núi thoai thoải, tên gốc là núi Bình Pha ( 平坡山 ), do xây chùa Bình Pha mà có tên đó, năm 1425 gọi là núi Thuý Vi. Chân núi phía Nam có nhiều chùa cổ, có chùa Trường An, chùa Linh Quang, Tam Sơn Để, chùa Đại Bi, Long Vương Đường, chùa Hương Giới, Bảo Châu Động, chùa Chứng Quả…xây dựa vào núi, gọi chung là Bát Đại Xứ, là Thánh Địa tu hành thời cổ xưa, gần đây trở thành khu tham quan nổi tiếng của ngoại thành quanh thủ đô Bắc Kinh. Phía chân núi Tây Nam có chùa Minh Kiến Pháp Hải, do vậy núi Thuý Vi này Thánh Địa của những người tu hành cổ xưa mộ đạo, phỏng đạo, tu đạo. Đúng lúc gặp phải Ngọ Mùi thay thế, Bạch Dương ứng vận, lúc Đạo và Kiếp giáng cùng lúc, Động Minh Bảo Kí ( 洞冥寶記 ) hồi thứ 6 ghi chép rằng Vô Cực Lão Mẫu giáng lâm ở núi Thuý Vi một bài văn khóc tàn linh, hy vọng gọi thức tỉnh tất cả nguyên linh nhanh chóng tìm Thiên Mệnh Minh Sư, sớm này cầu đạo, tu đạo để trở về Tiên Thiên, nội dung như sau :

 

一、        哭一聲,眾殘靈,九二原人,為什麼,眷戀紅塵?儘犯著:七情六慾,癡愛貪嗔。到於今,大劫頻臨;入六道,付轉輪。令為娘,心中愁悶,寧不酸辛! 胡不返本面娘親,母子們,快樂無垠。

( 1. Khóc một tiếng, chúng tàn linh, 92 tỉ nguyên thai phật tử vì sao quyến luyến hồng trần ? phạm vào tất cả thất tình lục dục, si ái tham sân. Đến nay, đại kiếp thường đến, vào lục đạo, phó chuyển luân, khiến mẹ đây, lòng sầu muộn, lẽ nào không cay đắng ! sao chẳng về gặp lại mẹ đây, mẹ con mình vui vẻ vô tận. )

 

二、        哭一聲,眾兒曹,是好根苗,為什麼,墜落塵囂?敢把那:五倫盡昧,八德全拋。於今,大劫屢屢;如小鳥,不歸巢。令為娘,心中急燥,寧不牢騷!胡不趕快赴蟠桃,母子們,快樂逍遙。

( 2. Khóc một tiếng, các con là những cây con gốc rễ tốt, vì sao lại đoạ lạc hồng trần hỗn loạn huyên náo ? dám đem Ngũ Luân giấu hết, Bát Đức vứt sạch. Giờ đây, đại kiếp thường xuyên; các con như chim nhỏ chẳng về tổ. Khiến Mẹ đây trong lòng kích động chẳng an, lẽ nào không càu nhàu ! sao chẳng nhanh chóng đến Bàn Đào, mẹ con mình khoái lạc tiêu diêu. )

 

三、        哭一聲,眾兒郎,離卻慈娘,為什麼,久不返鄉?多只為,勢纏利鎖,絆住名疆。到如今,午會白陽;皈根願,何能償,令為娘,倚閭懸望,寧不心傷?胡不採舞慰高堂,母子們,喜氣徜徉!

( 3. Khóc một tiếng, các con rời khỏi Từ Mẫu, vì sao lại lâu chẳng về quê ? phần nhiều chỉ vì xích khoá của Quyền thế tài lợi. Đến nay, hội Ngọ Bạch Dương, quy căn nguyện, sao thoả nguyện ? khiến mẹ đây tựa cửa ngóng mong, lẽ nào chẳng thương tâm ? sao không chọn điệu nhảy an ủi mẹ, mẹ con mình tự do chơi rông ngập tràn vui vẻ !

 

四、        哭一聲,眾女兒,是好根苗,為什麼,失了母儀?竟膽敢,三從不體,四德全虧。到於今,末期三劫;稍失慎,墮污池,令為娘,十分焦急,寧不傷悲!胡不歸去慰慈帷,母女們,喜笑依依。

( 4. Khóc một tiếng, các con là những cây con gốc rễ tốt, vì sao lại mất đi nghĩa mẫu ? lại cả gan Tam Tòng chẳng tuân, Tứ Đức toàn mất. Cho đến nay, tam kỳ mạt kiếp, chút bất cẩn, rơi hồ dơ, khiến mẹ đây vô cùng lo lắng, lẽ nào chẳng bi thương ! sao chẳng quay về an ủi mẹ , mẹ con mình vui cười luyến lưu. )

 

五、哭一聲,眾女娃,是好根芽,為什麼,不想回家?偏貪著,浮生泡影,鏡裡空花。到於今,大劫交加;儘罩住,這紅紗。令為娘,心中牽掛,寧不咨嗟!胡不早早返先槎?母女們,快樂無涯。

 

( 5. Khóc một tiếng, các con bé, là chồi ( mầm ) tốt, cớ sao lại chẳng muốn về nhà ? cố tham lấy cuộc đời bóng bọt chẳng bền, không hoa trong kính ( gương ), cho đến nay, đại kiếp cùng lúc đến, bao trùm hết hồng sa này. Khiến mẹ đây, trong lòng lo lắng, lẽ nào không than thở ! sao chẳng sớm sớm về Tiên Tra ( chiếc bè gỗ bằng trúc trong thần thoại giữa biển và thiên hà ), mẹ con mình, vui sướng vô tận.

 

Ở trên là Vô Cực Lão Mẫu giáng lâm tại núi Thuý Vi, kêu gọi các nguyên linh đừng tiếp tục mê luyến thất tình lục dục, si ái tham sân, vướng mắc vào xiềng khoá của thế lực, danh lợi và vứt sạch Ngũ Luân Bát Đức, Tam Tòng Tứ Đức, dẫn đến hạo kiếp của tam tai bát nạn, chỉ có sớm ngày cầu đạo, tu đạo, tích luỹ công đức mới có thể mẹ con sum vầy, quy căn nhận mẫu. Do vậy, núi Thuý Vi từ xưa đến nay là nơi tốt mà rất nhiều chúng sinh hướng đến cầu đạo, tu đạo, cho nên Ngự Chế Duyên Thức nói : 慕道虔心仰翠微mộ đạo kiền tâm ngưỡng Thuý Vi ). Nhà thơ Lậu Thất Minh ( Lưu Vũ Tích ) nói : 山不在高,有仙則名;水不在深,有龍則靈。」( núi dẫu không cao, có tiên thì nên danh ( nổi tiếng ), nước dẫu không sâu, có rồng thì linh. )

 

Thời cổ xưa có rất nhiều Cao Tăng đắc đạo đều tu hành tại núi Thuý Vi, do vậy rất nhiều người mộ đạo đều thích đến núi Thuý Vi để bái sư cầu đạo, cầu đạo gì đây ? Tiền hiền Triệu Quýnh bảo với chúng ta vô cùng rõ ràng, chính là cung thỉnh Thiên Mệnh Minh Sư mở ra khoá vàng huyền quan, do vậy huyền quan khiếu là cánh cửa ra vào của linh tánh, huyền quan khiếu nếu như chưa cung thỉnh thiên mệnh minh sư mở ra, thì không có biện pháp biết được chỗ cư ngụ của bổn tánh, suốt ngày kết giao với lục căn lục thức, cho nên tu kiểu mù, lãng phí vô số thời gian quý báu. Ví dụ như bạn muốn trồng trọt thì trước tiên phải tìm được mảnh đất của mình ở đâu. Bạn muốn gửi tiền ở ngân hàng thì phải biết ngân hàng của bạn ở đâu. Cho nên, tu đạo trước hết phải tìm được một mảnh lương tâm bảo địa của mình ở đâu, dụng công phu nơi bổn tánh của mình, thì mới có thể khai hoa kết trái. từ xưa đến nay, Huyền Quan Bảo Tạng là thiên cơ mật bảo của việc truyền thừa tâm ấn đại pháp. Nếu không phải là Đại Thiện Tri Thức lãnh thiên mệnh, thì là không thể tuỳ tiện tiết lộ. Đại Tạng Kinh Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục quyển thứ 10 viết : 向上一路,千聖不傳。」?( hướng thượng nhất lộ, thiên thánh bất truyền ). Tổ Sư tứ thập bát huấn viết : 末後一著,乃千真之嫡派,萬聖之命脈也。得者成仙,見者成佛,修者成聖。」

 

mạt hậu nhất trước, nãi thiên chân chi đích phái, vạn thánh chi mệnh mạch dã. Đắc giả thàn Tiên, kiến giả thành Phật, tu giả thành Thánh ). Bởi vì khoá vàng huyền quan vô cùng tịch tĩnh ẩn mật, nếu như không có chỉ điểm của Thiên Mệnh Minh Sư, trên thế gian rất ít có người có thể biết đến. Nếu như gặp được điểm truyền của Thiên Mệnh Minh Sư, mở ra huyền quan bảo tạng, tích cực tu bàn, thì có thể giống như cái mà Tổ Sư đã nói - người đắc thì thành Tiên, người thấy thành Phật, người tu thành Thhánh, cho nên Ngự Chế Duyên Thức nói : 玄關寂寂少人知( Huyn quan tịch tịch thiểu nhân tri ). Bởi vì căn cơ thâm hậu, Tổ Đức long thịnh, người có duyên phận tốt, giống như Đại Sư Lục Tổ Huệ Năng vậy, mới nghe kinh ngữ một cái, tâm lập tức khai ngộ. Bởi vì ngài biết tất cả châu báu của thế gian đều là hư vọng không thật, huống chi là danh lợi ân ái ? Nếu có thể biết thấu đạo lý tất cả vạn sự vạn vật trên thế gian đều là hư vọng không thật, thể ngộ trong thân thể có một pháp thân tự tánh. Người tu hành phải mượn giả tu chân, không thể rời khỏi nhục thân giả thể, cũng không thể chấp chước giả tướng, phải thể ngộ cái pháp thân chân như vô hình trong cái thân giả mới có thể nhìn thấy Như Lai bổn thể của chúng ta. Vì sao mà những vật chất có hình có tướng của thế gian đều là giả tướng, hư vọng không thật vậy ?

 

Bởi vì vạn tướng vạn vật của thế gian đều là nhân duyên hội hợp, duyên sanh duyên diệt, không cách nào tồn tại vĩnh viễn, ví dụ như đây là một chiếc ghế, chiếc bàn, chiếc xe, nhà, một chiếc đồng hồ, một chiếc điện thoại di động và tất cả châu báu, lại còn danh lợi ân ái bên ngoài, hiện tại thì quả thật là những thứ thật chất, nhưng sau khi trải qua mấy chục năm, những thứ này đều do những vô tình của năm tháng mà lão hoá hư hỏng, cho nên nói là hư vọng không thật. Nhục thân của con người cũng như vậy, sau quang cảnh của vài chục năm, vài trăm năm, một khi chết rồi, sau vài năm biến thành một đống xương, lại qua sau vài chục năm, vài trăm năm, biến thành bụi trần. Cho nên, Phật Thế Tôn nói : phàm có tướng đều là hư vọng. Chỉ có bổn tánh bên trong cái giả thể mới là pháp thân bất sanh bất diệt, cho nên Ngự Chế Duyên Thức nói : 不求世寶兼名利bất cầu thế bảo kiêm danh lợi ), tu hành tam tâm đều bất khả đắc, dùng vô tâm mà tu bàn thì đạo quả mới có thể viên mãn.

 

Thanh Tịnh Kinh nói : 內觀其心,心無其心,外觀其形,形無其形,遠觀其物,物無其物三者既悟,唯見於空nội quán kì tâm, tâm vô kì tâm, ngoại quán kì hình, hình vô kì hình, viễn quán kì vật, vật vô kì vật tam giả kí ngộ, duy kiến ư không ) người tu hành nội tâm phải dọn dẹp sạch sẽ, đối với tất cả hình tượng của ngoại giới, cho rằng đều là giả tượng mà không được chấp chước. Nội quán kì tâm bổn tánh thanh tịnh, lương tâm không bị sự ô nhiễm của nhân tâm, huyết tâm; ngoại quán kì hình, hướng ra xa quán nhìn vạn vật, những vật cảnh đã nhìn thấy đều là những huyễn cảnh hư vọng mà không thật, bổn tâm không có chấp chước, không bị ô nhiễm, như thế thì tự tánh phật mới có thể hiển lộ ra ngoài, minh thiện phục sơ, phản bổn hoàn nguyên. 心無其心、形無其形、物無其物tâm vô kì tâm, hình vô kì hình, vật vô kì vật ), ba loại không cảnh trên chính là vô tâm, đấy là ý nghĩa thật của thật tướng đối với chân không diệu hữu. Bởi vì 3 thứ tâm, hình, vật là căn nguyên của lục đạo luân hồi, có “ tâm ” thì có dục vọng, có “ hình ” thì có phiền não, có “ vật ” thì có tham cầu, người tu đạo có thể phá trừ 3 loại giả tướng trên, tâm linh thanh tịnh, không bị vật dục làm phiền nhiễu, chân không tự tánh bèn có thể hiển lộ ra ngoài. Bởi vì tu đạo phải dựa vào thể hội và kinh nghiệm, đi tham ngộ trong 3 thứ tâm, hình, vật, nhưng tổng cơ quan của nó là chủ nhân ông bên trong huyền quan khiếu, nếu những người chưa đắc thụ Bát Nhã chánh pháp, rất khó mà đi thể hội. Do vậy, không chấp tướng, dùng vô tâm mà tu bàn đạo, mới có thể hợp nhất với đạo, phản bổn quy căn, bảo trì gìn giữ một niệm ngay giờ phút hiện tiền của sơ phát tâm, cho nên Ngự Chế Duyên Thức nói :

 

「始悟無心合道時」thuỷ ngộ vô tâm hợp đạo thời ): từ xưa đến nay, tu hành mà chạm được đến gốc rễ thì thành Phật Tổ, chạm không đến thì là tu hành mù. Ví như ổ cắm điện phải cắm ở chỗ có nguồn điện mới có tác dụng, chìa khoá mở thì xe hơi mới có thể phát động. Cho nên, cung thỉnh Thiên Mệnh Minh Sư mở ra khoá vàng huyền quan thì bổn tánh mới có thể khởi sanh tác dụng, mới không dụng tâm sai. Sau khi Thiên Mệnh Minh Sư chỉ điểm nơi ở của bổn tánh, tất cả thị thính ngôn động đều là tác dụng của bổn tánh. Bổn tánh tuy vô hình vô tướng, nhưng lại có thể làm chủ tể tất cả thị thính ngôn động, người tu hành chỉ cần dụng công nơi huyền quan bổn tánh vô hình, mới biết rằng vạn pháp duy tâm, càng hiển ra tầm quan trọng của việc cung thỉnh thiên mệnh minh sư chỉ điểm bổn tánh, cũng hiển thị ra chỗ thần kì và ảo diệu của Thánh Giáo Huyền Quan, đấy là chỗ then chốt trọng yếu của tu đạo, đắc đạo, cho nên Ngự Chế Duyên Thức nói :

故無形像顯教尋cố vô hình tượng hiển giáo tầm ). Từ xưa đến nay, thiên cơ không thể tiết lộ, gọi là đạo bất truyền lục nhĩ. Do vậy, phải cung thỉnh thiên mệnh minh sư, truyền thụ Bát Nhã Chánh Pháp chí tôn chí quý, nhất định có sự dẫn nhập bảo nhập của Dẫn Bảo Sư, mới có thể được Thầy chỉ thụ đại đạo, hiển thị sự tôn quý và thù thắng của Bát Nhã Chánh Pháp, xưa và nay đều như vậy, chứ chẳng có gì đổi thay, cho nên Ngự Chế Duyên Thức nói :

 

隱秘蹤由自古今(Ẩn bí tung do tự cổ kim). Cái gọi là chân kinh không ở trên giấy, trên giấy chẳng có chân kinh. Phật Thế Tôn để lại tám vạn bốn nghìn pháp môn, thích hợp với căn cơ khác nhau của các chúng sanh mà độ hoá, những phật pháp tôn quý thù thắng này đều có thể dùng lời nói, văn tự để diễn giải và thuyết minh, nhưng pháp vô thượng phải có thiên mệnh minh sư đích thân truyền thụ mới có thể đăng đường nhập thất ( dần dần tiệm tiến đạt đến cảnh giới cao thâm ), hiểu rõ trăng sáng của tự gia, cho nên Ngự Chế Duyên Thức nói : 妙法不傅經上字( Diệu pháp bất truyền kinh thượng tự ). Tục ngữ nói : 修道不離身,打鐵不離砧。」( tu đạo bất ly thân, đả thiết bất li châm ). Tu đạo tu tâm, khôi phục lại Minh Minh chi Tâm, bàn đạo tận tâm, tận hết cái tâm chí thành.

 

Tu đạo có tứ tâmvô tín tâm ( tâm không tin ) thì khó nhập đạo, vô thành tâm không thành tâm ) khó hành đạovô kiên tâm ( tâm không kiên định ) khó thành đạo, vô nguyện tâm tâm không có nguyện ) khó liễu đạo.

 

Tu đạo có tứ tín : tin đạo chântin thiên mệnh chântin kiếp chân, tin nguyện chân.

 

Chúng sanh nếu chưa thông qua Thiên Mệnh Minh Sư chỉ điểm nơi ở của bổn tánh, không biết chỗ ở của bổn tánh thì không biết phương pháp hàng phục thân tâm, công phu chánh tâm tu thân chẳng biết nên bắt đầu từ đâu, thì tứ tâm nan lập, tứ tín nan hành, tu kiểu mù, mệt mỏi chẳng biết làm sao, làm sao biết được tác dụng thâm ảo huyền bí của Thánh Giáo Huyền Quan ? Cho nên, Ngự Chế Duyên Thức nói : 玄門消息罔知深Huyn môn tiêu tức võng tri thâm ) . Tin hin Triệu Quýnh từ bi vô lượng, lần nữa dặn dó thúc giục người tu hành trên thế gian, tu đạo phải cung thỉnh thiên mệnh minh sư, chỉ điểm nơi ở của tự tánh, sau đó dụng công phu nơi tự tánh, quán chiếu chuyển niệm, tích cực tu bàn, phước huệ song tu, nội ngoại song tiến mới có thể viên mãn tâm tánh, chứng quả thành chân, mới không lãng phí thời gian, uổng công bận rộn, cho nên Ngự Chế Duyên Thức nói :

 

浮生好道勿虛忙Phù sanh hảo đạo vật hư mang ) . Chỉ có tu đạo mới có thể rời khổ đắc lạc, liễu thoát nỗi khổ của lục đạo luân hồi. Thế nhưng cũng phải dựa vào bản thân mình, không thể dựa nhờ vào người khác mới có hiệu quả. Đấy chính là cái gọi là ai ăn cơm thì người ấy tự no, sanh tử của cá nhân mỗi người thì người ấy phải tự liễu, đạo lý là như nhau. Lại ví như người nào đó đã bệnh nặng không còn cách nào cứu chữa được, nhưng đúng lúc gặp phải danh y, tuy có tiên đơn, nhưng anh ta lại không chịu uống thuốc thì vẫn vô dụng, đạo lí là như nhau. Cho nên Ngự Chế Duyên Thức nói : 輕擧不由他假借khinh cử bất do tha giả tá ). Khoảnh khắc mà nhà du hành vũ trụ Alden Armstrong đáp xuống mặt trăng, đã nói một câu :

 

這是小小的一步,卻是人類的一大步。」(Đây là một bước nho nhỏ, nhưng lại là một bước lớn của nhân loại ), giống như chúng ta đến Phật đường cầu đạo, cung thỉnh thiên mệnh Minh Sư truyền thụ đại đạo, tuy là một bước nho nhỏ, nhưng lại là đăng thiên, một bước lớn thành Tiên làm Phật. Một hành động nhè nhẹ này thì có thể đắc thụ tâm ấn đại pháp chí tôn chí quý, chính là cái gọi là đạp phá thiết hài vô mịch xứ, đắc lai toàn bất phí công phu ( đạp nát giày sắt tìm chẳng được, được rồi chẳng mất tí công phu ) , quá tôn quý và thù thắng rồi. Một khi nhân duyên thành thục, cung thỉnh thiên mệnh minh sư, truyền thụ Bát Nhã chánh pháp chí tôn chí quý, khoá vàng huyền quan đã mở ra thì có thể minh tâm kiến tánh, lên Linh Sơn Thánh Vực, giống như tiến vào Tiên hương Phật địa vậy, tiêu diêu tự tại. Cho nên, Ngự Chế Duyên Thức nói : 一登淸境入仙鄕nhất đăng cảnh nhập tiên hương ) .

 

Tâm đắc tu trì

      Từ Cao Ly Đại Tạng Kinh cuốn thứ 35, Ghi chép của Ngự Chế Duyên Thức, khiến chúng ta thể hội được tầm quan trọng của việc tu đạo phải cung thỉnh thiên mệnh minh sư, truyền thụ bát nhã chánh pháp, cũng cho chúng ta biết rằng tu hành từ xưa đến nay vốn đã có. Do vậy, tu đạo trước tiên phải mộ đạo, lại tìm Thiên Mệnh Minh Sư truyền thụ Bát Nhã Chánh Pháp chí tôn chí quý, ấn chứng đắc thụ Bát Nhã chánh pháp là cung thỉnh Thiên Mệnh Minh Sư mở ra khoá vàng huyền quan, mới có thể biết được chỗ ở của bổn tánh, hạ công phu nơi bổn tánh, mới có thể công nguyện thành tựu, liễu nguyện hoàn hương. Chứng minh rằng huyền quan nhất khiếu nếu chưa gặp được chỉ điểm của thiên mệnh minh sư, rất ít chúng sinh có thể biết được. Những người có căn cơ, tổ đức, duyên phận sẽ chẳng màng đến châu báu và danh lợi trên thế gian, bởi vì những thứ có hình có tướng trên thế gian đều sẽ biến mất, chỉ có công đức mới có thể trường tồn. Có khái niệm này, giữ gìn sơ phát tâm, tích cực tu bàn mới có thể hợp nhất với đạo.

 

Tuy bổn tánh vô hình vô tướng, nhưng có thể làm chủ tất cả tư tưởng và hành vi của chúng sanh. Nếu có chỗ không hiểu, chỉ cần quán chiếu chuyển niệm nơi Thánh Giáo Huyền Quan, đều có thể giải quyết dễ dàng. Việc truyền thụ tâm pháp tông môn, từ xưa đến nay đều không có gì thay đổi. Pháp vô thượng nhất định phải cung thỉnh thiên mệnh minh sư truyền thụ mới có thể thụ dụng, đạo lý trên kinh điển là mọi người có thể đắc được pháp bình đẳng nhưng không phải là pháp môn đốn pháp. Do vậy, Huyền Quan Bảo Tạng là cánh cửa ra vào của linh tánh, nếu không có cung thỉnh thiên mệnh minh sư mở ra, đương nhiên chẳng biết sự ảo bí và thiên cơ của nó. Một lần nữa khích lệ mọi người chớ lãng phí thời gian, học, tu, giảng, bàn phải do đích thân mình thực hiện, tích cực tu hành, tuy rằng nhập đạo là một bước nhỏ, nhưng là đăng Thánh Vực, hy vọng mọi người phải nhận thức được sự tôn quý và thù thắng của Bát Nhã Chánh Pháp, tích cực tu bàn, mới có thể viên mãn tâm tánh, phản bổn quy hương. 

 

Số lượt xem : 352