Điều kiện thăng lên Đâu Suất Đà Thiên
Đâu Suất Đà Thiên là cõi tịnh độ mà các nguyên linh của pháp môn Bạch Dương tạm thời kí thân, cảnh sắc và thiên phước nơi đó dựa theo sự miêu thuật lại của kinh Phật Thuyết Quán Di Lặc Bồ Tát thượng sanh Đâu Suất Thiên như lời phật nói :
"Cõi trời Đâu-suất này là nơi phước đức thù thắng vi diệu, quả báo ứng hiện do nhân tu Thập Thiện. Dù cho Ta trụ thế suốt một tiểu kiếp để rộng nói về quả báo ứng hiện của Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ-Tát và những người tu Mười Điều Lành thì cũng không thể nói hết. Nay Ta vì các ông nên giảng giải sơ lược như thế."
Do vậy dựa theo những hình dung của Thế Tôn tán thán Đâu Suất Đà Thiên, hy vọng các tu tử tại thế phát vô thượng đạo tâm, chẳng nhàm chán sinh tử, tâm yêu kính bồ đề vô thượng, trì ngũ giới, bát quan trai, cụ túc giới, thân tâm tinh tiến chẳng ngừng, không cầu mong đoạn trừ các sự ràng buộc, tu hành Mười Pháp Lành, và lúc nào cũng tư duy về những việc an vui vi diệu bậc nhất ở trên cõi trời Đâu-suất.
1. Do vậy phàm những người tu phước trì giới phù hợp vãng sanh cõi này được yêu cầu là chẳng nhàm chán sanh tử, chẳng cầu mong đoạn trừ các sự ràng buộc, và nguyện theo Di Lặc hạ sanh Diêm Phù Đề. Trên cơ bản thì phàm là tu pháp thập thiện, giữ gìn ngũ giới và chẳng nhàm chán sanh tử, chẳng cầu mong đoạn trừ các sự ràng buộc là điều kiện tất yếu để vãng sanh cõi này.
2. Các tu tử tại thế nếu đã bị từ tâm của Di Lặc nhiếp thụ, thật sự thể ngộ ý nghĩa thật của đại từ hồng nguyện của Di Lặc, tùy lúc tùy nơi tận hết sức giúp đỡ các đồng bào ( tất cả chúng sanh ) khiến cho họ đắc pháp vui vẻ với đạo, và cố gắng hết sức ăn chay, hộ sanh phóng sanh, giữ giới, thập thiện, cung kính Di Lặc từ tôn, tham ngộ tự tánh, tiếp dẫn người có duyên, chẳng tính gian khổ hay vui vẻ, chẳng tránh phiền não, chẳng ham thích niết bàn, chẳng sợ sanh tử, như thế mới chẳng hổ thẹn là những hiền lương Bạch Dương thay trời tuyên hóa, và cũng phù hợp với bổn nguyện tiếp dẫn của Di Lặc thượng thăng Đâu Suất Đà Thiên.
Do vậy người phù hợp với bổn nguyện tiếp dẫn của Di Lặc từ tôn cần phải phù hợp với tình hình dưới đây :
a. Cầu đạo : Bạch dương ứng vận được Minh Sư thọ kí điểm hóa, tức thành quyến thuộc của Di Lặc, lãnh thụ sự truyền thừa của bạch dương tam bảo tâm pháp, ngay lúc ấy lập tức ấn tâm với Di Lặc Tổ Sư.
b. Tín ngưỡng pháp môn Di Lặc ( Bạch Dương tam bảo tâm pháp ), trì niệm phật hiệu Di Lặc ( Bạch Dương đệ tử sáng tối hiến hương và đọc tụng nguyện sám văn ).
c. Tu tập từ tâm của Di Lặc ( tương ứng với từ tâm tam muội của Di Lặc )
3. Nhân duyên với Di Lặc của lũy kiếp tu trì, dựa vào bản thân hành trì với hy vọng có thể được thăng lên Di lặc nội viện của Đâu Suất Thiên, ở trên trời tập kết nhân duyên thù thắng của nhân gian đời vị lai. Còn muốn “ đồng chú thiên bàn ” với Di Lặc Tổ Sư thì cần có nhân duyên quá khứ và sự tu trì của lũy kiếp tương đương. Ở đây đơn giản liệt kê ra 5 đoạn kinh văn tương quan trong Di Lặc thượng sanh kinh để ấn chứng nhân duyên với Di Lặc của lũy kiếp.
a. "Nếu có Tỳ-kheo cùng hết thảy đại chúng nào mà không nhàm chán sanh tử, muốn sanh lên cõi trời ấy, tâm yêu kính Bồ-đề vô thượng, và muốn làm đệ tử của Đức Di-lặc, thời họ hãy khởi quán tưởng này.
Người khởi quán tưởng này phải giữ Năm Giới, tu Bát Quan Trai, hoặc thọ giới Cụ Túc. Thân tâm họ tinh tấn, không cầu mong đoạn trừ các sự ràng buộc, tu hành Mười Pháp Lành, và lúc nào cũng tư duy về những việc an vui vi diệu bậc nhất ở trên cõi trời Đâu-suất. Người khởi quán tưởng này gọi là Chánh Quán. Nếu ai quán khác đi gọi là Tà Quán."
b. Sau khi Phật diệt độ, trong chúng đệ tử của Ta, nếu có ai tinh tấn, tu mọi công đức và oai nghi không khiếm khuyết, họ quét dọn chùa tháp sạch sẽ, hoặc dùng các loại hương thơm và hoa quý để cúng dường, tu hành các loại tam-muội, thâm nhập chánh thọ, và đọc tụng Kinh điển, thì những người như thế cần phải chí tâm. Tuy chưa đoạn trừ các sự ràng buộc nhưng sẽ đắc Lục Thông. Họ phải nên nhất tâm tưởng nhớ hình tượng của Đức Di-lặc và xưng tụng danh hiệu ngài. … Các chúng sanh như vậy, nếu ai thanh tịnh được các nghiệp và thực hành Lục Sự Pháp, thì nhất định sẽ sanh lên cõi trời Đâu-suất và gặp Đức Di-lặc. Họ cũng sẽ theo Đức Di-lặc xuống Diêm-phù-đề để nghe Pháp ở hội thứ nhất. "
c. "Sau khi Phật diệt độ, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, hay ma-hầu-la-già, mà nghe được danh hiệu của Di-lặc Bồ-Tát Ma-ha-tát, khi nghe xong, họ vui mừng và cung kính lễ bái. Lúc mạng chung khoảng chừng khảy móng tay, họ liền được vãng sanh như ở trước không khác. "
d. "Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào vi phạm các giới cấm và tạo nhiều nghiệp ác, mà khi nghe danh tự đại bi của Bồ-Tát, rồi đầu đảnh lễ sát đất và thành tâm sám hối, thời những ác nghiệp đó chóng được thanh tịnh.
Trong đời vị lai, nếu có chúng sanh nào nghe được danh xưng đại bi của Bồ-Tát, rồi tạo lập hình tượng, cúng dường hương hoa, y phục, lọng lụa, tràng phan, lễ bái, nhất tâm tưởng nhớ, thì khi người này mạng chung, họ sẽ được Di-lặc Bồ-Tát phóng hào quang từ tướng ánh sáng nơi lông mày trắng của bậc đại nhân ở giữa đôi chân mày. Còn các vị thiên tử sẽ rải hoa mạn-đà-la để nghênh tiếp họ. Người ấy trong vụt thoáng liền đắc vãng sanh và sẽ gặp Đức Di-lặc. Sau đó, họ cúi đầu cung kính đảnh lễ. Lúc còn chưa kịp ngẩng đầu lên thì họ đã nghe được Pháp và liền đắc bất thối chuyển nơi Vô Thượng Đạo. Vào đời vị lai, họ sẽ gặp Hằng Hà sa số chư Phật Như Lai."
e. "Sau khi Phật diệt độ, trong bốn chúng đệ tử cùng thiên long quỷ thần, nếu có ai muốn sanh lên trời Đâu-suất thời phải nên khởi quán tưởng này, nhất tâm tư duy về cung trời Đâu-suất và giữ các giới răng của Phật dạy. Từ một ngày cho đến bảy ngày, họ nhớ tưởng và thực hành Thập Thiện, rồi đem công đức ấy hồi hướng và nguyện sanh ở trước Đức Di-lặc. Họ cần phải khởi quán tưởng này! Người khởi quán tưởng này như thấy có một vị thiên nhân hay một hoa sen, nếu trong một niệm khoảnh mà xưng danh hiệu của Đức Di-lặc, thì người đó sẽ diệt trừ 1.200 kiếp nghiệp tội sanh tử. Ngay chỉ nghe danh hiệu của Đức Di-lặc, rồi chắp tay cung kính, thời người này sẽ diệt trừ 50 kiếp nghiệp tội sanh tử. Nếu có ai cung kính và lễ bái Đức Di-lặc, thì sẽ diệt trừ 10 tỷ kiếp nghiệp tội sanh tử. Giả như họ không được sanh lên trời, nhưng trong đời vị lai ở dưới cây Bồ-đề Long Hoa, người ấy cũng sẽ gặp được Ngài và phát tâm vô thượng."
Từ những kinh văn trên có thể biết rằng, phàm là nếu kiếp này đắc thụ tam bảo bạch dương này – chân truyền của đại pháp vô thượng - thì đều là những người đã tu hành lũy sanh lũy kiếp, thậm chí là những đệ tử, tì khâu, tì khâu ni , những thiện nam tín nữ đã theo phật tinh tiến cần mẫn tu hành 2500 năm trước, và cũng có những đệ tử tu trì đạt đến thiên long quỷ thần mới có pháp duyên Di Lặc thù thắng của kiếp này. Vì thế cũng nên có thể phát tâm thực tiễn hành trì để được thăng lên Đâu Suất Đà Thiên.
4. Lại từ những ghi chép trong Di Lặc hạ sanh kinh, những đệ tử quy y pháp môn Di Lặc cũng đa số là những đệ tử di giáo vẫn chưa tu thành chánh quả vào thời đại phật Thích Ca Mâu Ni, dưới đây cũng đưa ra vài đoạn kinh văn như sau :
Lúc bấy giờ Đức Di-lặc sẽ thuyết Pháp cho các đệ tử như vầy:
'Các Tỳ-kheo hãy tư duy:
[1] nghĩ tưởng vô thường;
[2] nghĩ tưởng trong vui có khổ;
[3] nghĩ tưởng hết thảy đều không có ngã;
[4] nghĩ tưởng tất cả đều chẳng thật có;
[5] nghĩ tưởng sự biến đổi của sắc thân;
[6] nghĩ tưởng máu bầm ứ đọng;
[7] nghĩ tưởng thân bị phù thũng;
[8] nghĩ tưởng ăn không tiêu hóa;
[9] nghĩ tưởng máu mủ mụt nhọt;
[10] nghĩ tưởng hết thảy mọi sự trên thế gian đều chẳng thể mãi an vui.
Tại vì sao? Các Tỳ-kheo nên biết, 10 điều nghĩ tưởng này đều là do Đức Phật Thích-ca-văn đã giảng nói cho các ông, khiến các ông dứt trừ hữu lậu và tâm được giải thoát.
Nếu có ai trong chúng đệ tử của Đức Phật Thích-ca-văn thuở quá khứ mà tu Phạm hạnh thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn cúng dường Tam Bảo thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn tu căn lành chừng thời gian khảy móng tay thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn thực hành Tứ Vô Lượng Tâm thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn thọ trì Ngũ Giới và Tam Quy Y thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn dựng xây tháp miếu thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn tu bổ chùa tháp thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn thọ giới Bát Quan Trai thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn cúng dường hương hoa thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn rơi lệ thương khóc khi nghe Chánh Pháp thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn nhất tâm thọ trì Kinh Pháp thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn khéo tu Phạm hạnh thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn biên chép hoặc đọc tụng Kinh điển thì sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn phụng sự cúng dường thì sẽ đến chỗ của Ta.'
Từ những điểm ở trên, có thể thấy những đệ tử bạch dương của tiên thiên đại đạo có quan hệ sâu dày với Phật Thế Tôn mới có thể ở trong thời đại của Di Lặc ứng vận, gặp phật, nghe pháp mà chứng quả.
5. Những người muốn có thể thăng lên cõi Đâu Suất Đà Thiên, tương lai sau này cùng Tổ Sư hạ thế tham dự Long Hoa Tam Hội, đắc thụ sự độ hóa từ Di Lặc Tổ Sư mà chứng quả cần phải có những nhân duyên dưới đây :
a. Những người có thể hiểu rõ chánh pháp Như Lai và rộng gieo trồng phước điền.
b. Những người bảo vệ thực hành tam bảo và tinh thần phấn chấn hăng hái.
c. Những người có thể trung thực tuân thủ giới luật và thực hiện nguyện đã lập
d. Những người có thể chăm chỉ thực hành việc thắp đèn đốt nhang, và lễ bái cúng dường.
Số lượt xem : 376