BẠCH DƯƠNG KỲ - Bạch Dương Tu SĩBạch Dương Kỳ 2002

Nghi thức cầu đạo tức là quá trình hàng vọng hiển chơn ( Sự thù thắng của Minh Sư một chỉ điểm )

Tác giả liangfulai on 2023-06-28 15:12:29
/Nghi thức cầu đạo tức là  quá trình hàng vọng hiển chơn ( Sự thù thắng của Minh Sư một chỉ điểm )

Lúc Thế Tôn triệt ngộ chơn tướng nhân sanh vũ trụ đã kinh ngạc nói rằng : “ Lạ thay ! Lạ thay ! Tất cả chúng sinh đều có trí tuệ, đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng đắc; nếu không có vọng tưởng chấp trước thì vô sư trí tự nhiên trí tức thời hiển hiện ra trước mắt”, chứng minh rằng nếu muốn chứng đắc phật tánh chơn thật thì trước hết cần phải trừ vọng là điều chẳng có gì đáng nghi ngờ.


Vọng chẳng trừ thì cái chơn thật tức chẳng cách nào hiển lộ. Thiên Đạo sở dĩ tôn quý chính là ở chỗ toàn bộ nghi thức cầu đạo chính là quá trình “ trừ vọng hiển chơn ”. Bây giờ chúng ta hãy cùng hồi tưởng lại tình huống lúc cầu đạo thì sẽ hiểu rõ hàm nghĩa bên trong của nghi thức cầu đạo.

 

A. Thiên chân thâu viên quải Thánh Hiệu.

 

Còn nhớ lúc mới đến Phật đường cầu đạo, dưới sự dẫn dắt bảo lãnh của Dẫn Bảo Sư, chúng ta đến chỗ đăng kí số để làm thủ tục đăng kí lấy số. Điều khiến cho người ta nghĩ mãi chẳng hiểu chính là : vì sao chẳng dùng những từ như báo tên, đăng kí, chú sách …mà lại cứ phải dùng từ “ đăng kí lấy số ” mà chỉ có ở bệnh viện mới dùng đến ? lẽ nào chúng ta đã bệnh rồi chăng ?

Chính xác là như vậy. Chúng ta đã bệnh rồi, vả lại còn bệnh đến nỗi rất nghiêm trọng. “ Kinh Lăng Nghiêm ”, “ Kinh Viên Giác ” đều nói : “ Tất cả chúng sanh vốn dĩ thành Phật ”Chúng ta vốn dĩ là Phật, nay lại trở thành chúng sanh rồi, đấy chẳng phải là đã bệnh đến rất nghiêm trọng rồi sao ? Thế nhưng số mà chúng ta đăng kí lấy chẳng phải là số bình thường, mà là “ Thánh hiệu ” ( số của Thánh ), là số của siêu phàm nhập thánh, cũng có nghĩa là đến Phật đường để đăng kí lấy số cầu đạo, là khẩn cầu Sư Tôn, Sư Mẫu hai vị Minh Sư của đương đại vì chúng ta mà chỉ điểm, truyền thụ phương pháp “ ràng buộc thân tâm, viên minh giác tánh ”, để khôi phục lại cái bổn lai diện mục ngây thơ chẳng tà, giống như “ Di Lặc chơn kinh ” đã nói : “ Thiên Chân thâu viên quải thánh hiệu ”, toàn bộ nghi thức cầu đạo chính là để đạt thành cái mục đích này mà thiết kế ra.

 

 

B. Lễ kính Chư Phật, chân ) thành nhất vô vọng vô vọng : chẳng có vọng niệm )

 

Thông thường sau khi đăng kí lấy số sẽ sắp xếp sự khai thị đơn giản, rồi mới tiến hành nghi thức cầu đạo chính thức. Nghi thức bắt đầu một cái, điều tiến hành trước hết chính là hiến cúng. “ Hiến cúng ” là hiến lên những thức ăn chay thanh khiết để biểu đạt sự thành kính của chúng ta đối với Tiên Phật, nhưng điều quan trọng hơn là mượn nhờ nghi lễ hiến cúng chỉnh tề, trang nghiêm, long trọng để hàng phục cái tâm vọng tưởng của người cầu đạo. Bởi vì bất luận người cầu đạo do yếu tố, nguyên do gì đến cầu đạo đều khó tránh khỏi nghi hoặc, hiếu kì, tâm sanh vọng tưởng, mà cái tâm vọng tưởng là sự chướng ngại lớn nhất của việc khai ngộ kiến tánh. Mục đích lớn nhất của lễ hiến cúng là ở chỗ khiến cho tâm người nảy sanh sự thành kính, sau đó hàng phục cái vọng tâm của người cầu đạo. 

 

C. Chư Thiên Tiên Phật hộ pháp đàn

 

Sau khi hiến cúng thì ngay sau đó chính là “ thỉnh đàn ”. “ Thỉnh đàn ” là cung thỉnh Chư Thiên Tiên Phật, Vạn Tiên Bồ Tát đến hộ pháp đàn, vi diệu giống với việc Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn lúc đem y bát truyền cho Lục Tổ thì dùng cà sa che lại không cho ai thấy, phương pháp tuy khác nhau nhưng có cùng một hiệu quả. Có một quyển sách do loan đàn phê, trong sách nhắc đến việc có một vị Thiên Quan dẫn theo vị Loan sinh họ Trang ( gọi tắt là Trang Sinh ) đi du cõi trời. Trang Sinh từ cõi trời nhìn xuống nhân gian nhìn thấy một ngôi nhà của dân phát sáng lấp lánh, bất giác khiến anh ta kinh ngạc vô cùng. Do đó anh ta bèn hỏi vị Thiên Quan : “ cái ngôi nhà dân này sao lại lấp lánh sáng rực ? ” . Vị Thiên Quan trả lời rằng “ hiện tại là Bạch Dương kì, Tế Công Hoạt Phật lãnh mệnh đại khai phổ độ tam tào, ngôi nhà dân này có thiết lập Tiên Thiên Phật Đường, Tế Công Hoạt Phật hiện đang truyền đạo. ” Trang sinh bèn hiếu kì hỏi rằng : “ chúng ta có thể đến gần một chút để xem cho rõ có được không ? ”. Vị Thiên Quan trả lời rất khẳng định rằng : “ không thể được, bởi vì lúc bàn đạo sẽ thỉnh đàn cung thỉnh Chư Thiên Tiên Phật, Vạn Tiên Bồ Tát hộ đàn, ngươi càng đến gần thì ánh sáng sẽ càng mạnh, sẽ chiếu đến nỗi mắt của con chẳng thể mở ra được, vốn dĩ chẳng cách nào tiếp cận được ”.

 

Quyển sách này do Loan Đàn không liên quan gì đến đạo trường xuất bản, nhưng đã chứng minh cái mà đạo trường đã nói : thỉnh đàn một cái thì Chư Thiên Tiên Phật, Vạn Tiên Bồ Tát cùng đến hộ pháp đàn chơn thật chẳng hư. Cho nên, mục đích của việc thỉnh đàn giống như lúc Ngũ Tổ truyền đạo cho Lục Tổ “ dùng cà sa che lại không cho ai thấy ” . Chẳng qua là hiện tại người cầu đạo không chỉ một vị, có lúc mười mấy vị, thậm chí hàng trăm vị, vốn dĩ không cách nào dùng cà sa che vây lại, huống hồ hiện nay đạo trường Thiên Đạo cũng chẳng có cà sa, dùng phương tiện thiện xảo bèn khẩn thỉnh Chư Thiên Tiên Phật, Vạn Tiên Bồ Tát đến hộ pháp đàn. Phật đường sau khi đã thỉnh đàn thì giống như thêm một lớp quang thể ( thể phát ra ánh sáng ) bảo hộ, hoàn toàn nhìn chẳng thấy tình hình vận hành và tình hình truyền pháp bên trong của phật đường, đấy cũng chính là chỗ thù thắng của Thiên Đạo. Còn Phật đường tức là môi giới tiếp dẫn chúng sanh trực tiếp thẳng lên Lí Thiên. Nếu Nhân gian là biển khổ thì Phật đường tức là pháp thuyền cứu độ đi lại giữa Thánh Phàm trời người.

 

D. Quỳ đọc thân thỉnh

 

Sau khi thỉnh đàn xong, ngay tiếp theo sau đó là “ quỳ đọc thân thỉnh ”. Nếu là những tiền hiền thường tham dự bàn đạo thì nhất định có thể cảm thụ được sự thù thắng của bài kệ “ quỳ đọc thân thỉnh ” này. 「末後一著昔未言明人在此訴一番愚夫識得還鄉道生來死去見當前」“ mạt hậu nhất trước tích vị ngôn, Minh nhân tại thử tố nhất phiên, ngu phu thức đắc hoàn hương đạo, sanh lai tử khứ kiến đương tiền ”. Bây giờ sẽ đem bài kệ 4 câu này giải thích đơn giản sơ lược.

 

「末後一著昔未言」Mạt hậu nhất trước tích vị ngônToàn bộ cái nghi thức cầu đạo giống như Pháp Hoa thịnh hội, cái mà truyền chính là Phật thừa duy nhất, cũng chính là ý nghĩa của “ mạt hậu nhất trước ”là chân lí trực tiếp khải phát tự tánh.

 

“tích vị ngôn” :  là điều mà Chư Phật Bồ Tát, các đời Tổ Sư, Đại Đức quá khứ trước đây chưa từng nói qua. Lúc bấy giờ, khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng “ Kinh Pháp Hoa phàm những ai được Phật thọ kí cho đều nhất định sẽ thành Phật, nhưng cũng chẳng cách nào giống như “ Ngu phu ” của hiện tại cũng có thể “ thức đắc hoàn hương đạo ” ( thức đắc hoàn hương đạo : biết được con đường trở về cố hương ) . Chúng ta chẳng có công chẳng có đức, nhưng lại có thể đắc thụ một chỉ của Minh Sư, quả thật là phải cảm tạ Thiên Ân Sư Đức.

 

「明人在此訴一番」Minh nhân tại thử tố nhất phiên” Minh nhân ” là người hiểu rõ chân lí, người mà ở đây chỉ đến là Sư Tôn Tế Công Hoạt Phật, Sư Mẫu Nguyệt Tuệ Bồ Tát, tại đây vì đại chúng mà tường thuật giải thích rõ một lần, để mọi người biết có đạo có thể cầu, sanh tử có thể liễu, liễu kiếp trở về lại cố hương.

 

「愚夫識得還鄉道」Ngu phu thức đắc hoàn hương đạo:「Nguchẳng phải là ngu dốt. Trong số các đạo thân, có không ít những phần tử tri thức cao, học vấn cao là Thạc Sĩ, Tiến Sĩ , sao lại có thể ngu ngốc đây ? Đạt Ma Tổ Sư nói rằng : “ chấp hữu ( có ), chấp vô ( chẳng có ) đều là ngu ”, thử hỏi có vị Tiến Sĩ , người quyền quý nào mà không chấp trước ? Phàm phu thì chấp trước “ hữu ( có )”, hàng Nhị Thừa thì chấp trước 「空 Không, đều là ngu phu.

 

“ Bát Thức quy củ tụng ” rằng : “ kẻ ngu khó phân biệt được thức và căn ”. “ Kẻ ngu ” ở đây là chỉ A La Hán. A La Hán là bậc thánh của tiểu thừa, vẫn là ngu phu. Phàm phu của thế gian có ai có thể siêu vượt cảnh giới của A La Hán đây ?

 

“ Hoàn hương đạo ” con đường trở về cố hương ) là có thể liễu thoát nỗi khổ của lục đạo luân hồi, một con đường chánh để chứng đắc niềm vui Niết Bàn Tịch Diệt. Cái mà Thầy truyền cho chính là đại đạo khang trang liễu thoát sanh tử, miễn được việc lang thang trong lục đạo luân hồi, trở về cố hương gặp lại mẹ ( Lão mẫu của tự tánh ). Cho nên, Ân Sư mới nói 「各個皆得還鄉道,保你無恙萬八年。」( các cá giai đắc hoàn hương đạo, bảo nễ vô dạng vạn bát niên )

 

 

「生來死去見當前」sanh lai tử khứ kiến đương tiền Sau khi đắc thụ “ hoàn hương đạo ” ( một chỉ của Minh Sư ) này, nhất định có thể liễu phân đoạn sanh tử sanh tử trong tam giới ), trừ phi là phản đạo bại đức. Do vậy, phàm là đạo thân của ta, lúc công quả viên mãn hoàn hương thì nhục thể ( thân xác ) đều có tướng mạo tốt đẹp mềm mại như sợi bông.

 

「見當前」Kiến đương tiền : có hai lớp nghĩa : một là chỉ ngay lúc ấy liễu sanh tử; hai là chỉ đời này nhất định liễu sanh tử.

 

 

E. Thiên bảng ghi danh, địa phủ rút tên.

 

 

Sau khi quỳ đọc thân thỉnh, tiếp theo là “ đọc biểu, đốt biểu ”.

 

“ Đọc biểu ” là Minh Sư một đời – Sư Tôn, Sư Mẫu biểu tấu Thượng Đế rằng có chúng sanh đột phá trần duyên, khẩn thỉnh Thượng Đế  ban cho con đường sáng rõ.

 

“ Đốt biểu ” đối với người cầu đạo mà nói , là “ thiên bảng ghi danh, địa phủ xóa tên ” ở trên sự tướng.

Có một vị điểm truyền sư tới nước ngoài khai hoang xiển đạo. Có một lần lúc bàn đạo, có vị đạo thân dắt theo một người bạn đến Phật đường, muốn độ cô ấy cầu đạo. Thế nhưng người bạn đó lại biểu rõ là tạm thời không cầu đạo, vả lại hy vọng có thể quan sát nhìn thấy toàn bộ nghi thức cầu đạo. Điểm truyền sư từ bi bèn đáp ứng, nhưng có một yêu cầu là chỉ có thể nhìn xem ở phía sau, không thể đến phía trước để xem. Cô ấy tuy chẳng hài lòng, nhưng vẫn có thể chấp nhận. Lúc thắp Phật đèn rồi, thỉnh phật giá rồi, đang lúc chuẩn bị bắt đầu tiến hành nghi thức truyền đạo thì đột nhiên xuất hiện kì tích : cô ấy đột nhiên bày tỏ là muốn cầu đạo, được sự đồng ý của điểm truyền sư, do đó nhân viên văn thư lập tức giúp cô ta ghi danh, điền viết biểu văn, và rồi hoàn thành nghi thức cầu đạo. Điểm truyền sư quả không hổ là người có nhiều kinh nghiệm, trong lòng đã biết đấy nhất định là do có hiển hóa, do đó trước khi giảng tam bảo, đưa ra ba vấn đề để thỉnh giáo cô ấy.

 

Thứ nhất, “ vì sao lúc mới đến đã biểu thị rõ ràng là tạm thời không cầu đạo, vì sao mà sau đó lại thay đổi 1800 , kiên quyết bày tỏ là muốn cầu đạo ? ”. Lúc này cô ấy mới nói rõ là cô ấy có thiên nhãn thông, có thể nhìn thấy quỷ thần, vả lại bày tỏ rằng cô ta đã đi khắp các chùa lớn của các nước Đông Nam Á, nếu nhìn từ bên ngoài, cô ấy nói rằng cái phật đường này phải xem là nhỏ nhất. Nhưng điều mà cô ta kinh ngạc là từ bên ngoài phật đường, cô ta đã nhìn thấy cả ngôi nhà đều sáng chói lấp lánh, sáng đến chói mắt, đấy là điều mà những ngôi chùa bình thường đều chẳng có. Tuy là như vậy, cô ấy vẫn chẳng an tâm, bởi vì chẳng thể xác định là chánh hay tà. Mãi cho đến lúc thắp phật đèn rồi, nhìn thấy Chư Thiên Tiên Phật lần lượt giáng lâm đến Phật đường hộ pháp đàn, lúc này cô ấy mới tin chắc là chánh đạo, do đó yêu cầu muốn cầu đạo.

 

Điểm truyền sư liền tiếp theo đó đưa ra vấn đề thứ hai : “ lúc đốt biểu thì cô nhìn thấy cái gì ? ”, nào ngờ cô ta nói rằng biểu văn chẳng có bị đốt, mà là do 3 vị Tiên Phật tiếp lấy mang đi rồi. Lời này mới thốt ra xong thì đồng thời những người cầu đạo do vậy mà bắt đầu tranh luận với cô ta, bởi vì tình hình mà họ nhìn thấy được là : biểu văn đã đốt rồi. Không sai, từ con mắt thịt của phàm thai mà nhìn thì biểu văn quả thật  đã đốt rồi, nhưng tình hình thực tế là do Tam Quan Đại Đế tiếp nhận mang đi “ thiên bảng ghi danh, địa phủ xóa tên ”, thoát ly khỏi sự chưởng quản của Thập Điện Diêm Quân.

 

Điểm Truyền Sư lại tiếp tục hỏi cô ta vấn đề thứ ba : “ lúc điểm đạo, cô lại nhìn thấy cái gì ? ”cô ta nói cô ta nhìn thấy từ phật đèn ( đèn mẫu ) phát ra một luồng ánh sáng rất mạnh, theo cánh tay của Điểm Truyền Sư phóng thẳng vào chỗ của Minh Sư nhất chỉ. “ Kinh Thánh ” Mã Thái Phúc Âm chương thứ 3, tiết thứ 10 , Ông Gio-an ( John ) đã nói rằng : “Tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh linh và lửa”. Các vị Tiền Hiền đều biết rằng Cơ Đốc Giáo trước mắt đều là dùng “ nước ” để làm lễ rửa tội, chưa từng thấy có “ Thánh linh và lửa ”, mà lúc truyền đạo thì điểm truyền sư từ ngọn đèn mẫu thắp sáng và tiếp dẫn phật quang đến từ Lí Thiên, lại mượn từ Thánh linh của Thầy đã phó thác, tay của Điểm Truyền Sư điểm mở ra cánh cửa linh tánh của chúng ta, như thế có thể biết những lời tiên đoán của Kinh Thánh tại đây đắc được ấn chứng tốt nhất.

 

F. Cầu nối liên hệ tịnh độ và nhân gian

 

 

Sau khi đốt biểu, tiếp liền sau đó là Dẫn Bảo Sư sẽ lập nguyện. Dẫn Bảo Sư là một chiếc cầu nối giữa nhân gian và Đâu Suất tịnh độ, nếu như không có sự phát tâm dẫn độ của Dẫn Bảo Sư thì chúng ta chẳng cách nào cầu đạo. Ngày nay đạo vụ có thể hoằng triển như vậy, đạo trường lớn như vậy chính là vì có vô số các đạo thân phát tâm độ người, đảm nhiệm Dẫn Bảo Sư.  Dẫn Bảo Sư dẫn chứng rằng thân gia của chúng ta trong sạch, phẩm hạnh đoan chánh; Bảo sư bảo chứng với chúng ta rằng đạo chơn, lí chơn, thiên mệnh chơn.

 

 

G. Kính ( quỳ ) nghe lễ chúc.  

 

 

Đấy là những lời mà một đời Minh Sư dặn dò phó thác đối với chúng ta trước khi đem đạo truyền cho chúng ta, cũng là phần quan trọng nhất trong toàn bộ nghi thức. Trong sự kính nghe “ lễ chúc ” đã hoàn thành việc truyền thụ tâm pháp, ý nghĩa của quá trình ấy giống với Luận ngữNghiêu Viết Thiên 》: 「咨!爾舜,天之曆數在爾躬,允執其中,四海困窮,天祿永終。」。( Nghiêu Viết : Tư ! Nhĩ Thuấn, Thiên chi lịch số tại nhĩ cung. Doãn chấp kỳ trung. Tứ hải khốn cùng. Thiên lộc vĩnh chung. ) Tạm dịch : “ Vua Nghiêu nói : “ tốt quá ! Này cậu Thuấn. Mệnh trời sẽ đặt lên vai cậu, để cậu kế vị ngai vàng. Nếu thiên hạ đều nghèo đói, ngôi vị của ngươi cũng sẽ kết thúc. ”.

 

 

Lúc Nghiêu đem thiên mệnh truyền cho Thuấn cũng yêu cầu Thuấn giữ vững thiên tâm, tự mà biết cẩn thận hành sự cho hoàn thiện thỏa đáng, bằng không, hủy đạo bại đức tức ngôi vị sẽ kết thúc, Thượng Đế sẽ thu hồi thiên mệnh. Vào thời kì thượng cổ trước đây, đạo giáng tại quân vương, chỉ có quân vương mới có thể đắc đạoHiện nay là thời kì Bạch Dương, đạo tại thứ dân, người người đều có thể cầu đạo, càng phải nên trân trọng mới có thể liễu nguyện hoàn hương. Cả thiên “ Lễ Chúc ” có 3 trọng điểm :

 

1.      Thuật lại nguyên nhân mà đại đạo phổ truyền.

2.      Lập nguyện phải liễu nguyện, nguyện liễu rồi hoàn hương.

3.      Một chỉ của Minh Sư là diệu pháp vô thượng.

 

Trọng điểm thứ ( 1 ) và ( 2) ở đây không tường thuật chi tiết thêm, chỉ trình bày chi tiết thêm ở trọng điểm thứ ( 3 ) : Một chỉ của Minh Sư là diệu pháp vô thượng.

 

Trong toàn bộ nghi thức thì “ điểm huyền ” là công việc cốt lõi nhất. Nghi thức tiến hành đến đây thì Thượng Chấp Lễ lại nhắc nhở người cầu đạo : “ bình tâm tĩnh khí, mắt nhìn phật đèn ”Toàn bộ nghi thức cũng chỉ có câu nói này nói lặp lại hai lần. Vì sao vậy ? Bởi vì câu nói này là then chốt sở tại của việc có thể khai ngộ hay không. Chúng sanh sở dĩ không thể đốn ngộ tự tánh chính là vì vọng niệm quá nhiều, nếu kì vọng khai ngộ tự tánh thì nhất định phải như “ Lục Tổ Đàn Kinh ” đã nói : “ngưng nghỉ các duyên, chớ sanh một niệm ”. Lúc bấy giờ khi Trần Huệ Minh đuổi theo Lục Tổ, vọng niệm trong lòng của ông ta tuyệt đối không thua kém chúng ta, nhưng khi ông ta nhấc chẳng nổi y bát, biểu rõ với Lục Tổ rằng : Hành giả ! tôi vì pháp mà đến, không vì y mà đến ”. Do vậy Huệ Năng nói : “ nếu ông đã vì pháp mà đến, có thể ngưng nghỉ các duyên, chớ sanh một niệm. ”. Lục Tổ đợi Trần Huệ Minh sau khi vạn duyên đều buông xuống mới vì ông ta mà thuyết pháp, Trần Đại Minh quả thật đại ngộ ngay dưới lời nói ấy. Cho nên “ bình tâm tĩnh khí, mắt nhìn phật đèn ” chính là hy vọng người cầu đạo có thể buông xuống vạn duyên, giống với mục đích “ ngưng nghỉ các duyên, chớ sanh một niệm ”. Nếu như không thể buông xuống vạn duyên mà kì vọng khai ngộ thì là chuyện không thể được. Từ nghi thức khai ngộ cho đến “ hồng thệ đại nguyện vĩnh bất năng hoàn ” là quá trình “ trừ vọng ”; từ “ đương tiền tức thị chân dương quan ” trở đi tức là tiến vào giai đoạn “ hiển chơn 

 

當前」“ Đương tiền ” nghĩa là hiển hiện ngay trước mắt, hiển hiện ngay trước mắt tức là “ chân dương quan ”.

“ Chân ” nghĩa là không giả, chân thật chẳng hư dối.

“ Dương ” chẳng phải là cái dương đối với cái âm mà nói, mà là cái dương siêu vượt qua âm dương, cho nên nói : “ chân dương ”, cũng gọi là “ thuần dương ”. Ngay trước mắt chính là khế nhập then chốt của chân dương.

“ Chân thủy ” là tánh thủy“ chân hỏa ” là tánh hỏa. “ Kinh Lăng Nghiêm ” nói rằng : “ tánh thủy là chân không, tánh không là chân thủy, bản nhiên thanh tịnh, toàn khắp pháp giới ” ; “ tánh hỏa là chân không, tánh không là chân hỏa, bản nhiên thanh tịnh, toàn khắp pháp giới ”, cho nên “ chân thủy, chân hỏa ” chính là chỉ bổn tánh chơn như, lương tâm bổn tánh.

「已俱全」Dĩ câu toàn có nghĩa là vốn dĩ có đầy đủ.

「真水真火已俱全」 “ Chân thủy chân hỏa dĩ câu toàn ” giống với ý của “ đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ ” mà Lục Tổ đã nói lúc khai ngộ kiến tánh.

 

“ Nay ta chỉ dẫn cho các con một con đường lớn ( đại đạo ) quang minh, ngọn đèn sáng của Lão Mẫu chiếu rọi soi sáng ở “ trước mắt ” của chúng ta; do 『瞳神』“ đồng thần ”  chủ tể hai mắt phát hiện, ngay lúc ấy chính là 當下即是 ), đấy là một con đường lớn quang minh cực kì rộng lớn siêu vượt trần tục. ”. Ở đâu vậy ? “ chẳng gặp được Minh Sư thì chớ mà dốc hết sức suy đoán ” , do vậy mới cần Ân Sư “ Minh Nhân ” ( người hiểu rõ ) , “ tại thử tố nhất phiên ” ( tại đây nói cho nghe một lần ) . Trong bài kệ truyền đạo của Hoạt Phật Ân Sư, điều đáng để chúng ta chú ý nhất là câu này “ 「二目瞳神來發現」“ Nhị mục đồng thần lai phát hiện ”, đặc biệt là từ “ đồng thần ” này. Câu này giống như lần thứ nhất của mười lần hiển hiện trong “ Kinh Lăng Nghiêm ”, chỉ thị rõ 「如是見性,是心非眼」“ như thị kiến tánh, thị tâm phi nhãn ” tạm dịch : sự thấy là tâm, chẳng phải mắt. ) . Cái có thể thấy là tâm, chẳng phải là mắt. Nếu như là mắt thì thầy đã nói thẳng toạc ra「兩個眼睛來發現」“ Lưỡng cá nhãn tình lai phát hiện ” tạm dịch : hai con mắt phát hiện )  thì được rồi , hà tất dùng 「瞳神」 “ đồng thần ” chi vậy ? bởi vì bản thân con mắt không thể nhìn thấy, nếu như mắt quả thật có thể nhìn thấy, vậy thì những người vừa mới qua đời, mắt của họ vẫn còn tốt vậy, vì sao lại chẳng thể nhìn thấy ? thế nhưng nếu đem giác mạc của những người đó cấy ghép đến trên thân của người có bệnh về mắt thì lại có thể khiến cho họ nhìn thấy trở lại ánh sáng ? cùng là một cơ quan bộ phận, trên thân của người sống có thể nhìn thấy tất cả mọi hình ảnh, trên thân của người chết lại chẳng khởi được một chút tác dụng. Cho nên, “ cái có thể thấy là tâm, chẳng phải là mắt ”mắt chỉ là công cụ mà thôi. Cũng ví như lúc lên tiết học về sinh vật, dùng kính hiển vi để quan sát những vật chất nhỏ li ti, rốt cuộc là mắt đang xem hay là kính hiển vi đang xem ? dựa vào sinh lí học mà mà nói, chẳng cần phải nghi ngờ gì đương nhiên là mắt đang xem, kính hiển vi chỉ là có công năng hiển sắc mà thôi ! càng suy thêm một bước nữa, cùng là đạo lí đó, con người tuy nhờ vào mắt nhìn thấy tất cả các cảnh tượng, thật ra cái có thể thấy là tâm chứ chẳng phải là mắt, mắt chỉ là có công năng hiển sắc mà thôi. Do vậy, bản thân mắt và kính hiển vi đều chẳng có công năng nhìn thấy, chúng nó chỉ là công cụ hiển sắc mà thôi !

 

「瞳神」” Đồng thần ” là vị chủ tể thật của chúng ta, mắt là công cụ của vị chủ tể thật. Bởi vì cái chơn tâm của chúng sanh phàm phu bị che lấp rồi, chỉ có thể dùng nhục nhãn ( mắt thịt ) ( lượng nhìn thấy ít nhất ) để xem. Nếu như cái chơn tâm của chúng sanh phàm phu chưa bị che lấp, thì giống như Phật vậy, tất cả mọi cảnh giới đều liễu liễu phân minh ( thấy hiểu rõ ràng ) , cho dù thế giới nơi khác đang mưa mấy giọt cũng đều biết thảy. Những ngôi chùa mà có cực nhiều các tín đồ đến dâng hương triều bái, cùng lúc có hàng nghìn hàng vạn các tín đồ thắp nhang quỳ bái, trong lòng thầm cầu phật, bồ tát phù hộ. Phật, Bồ Tát làm sao có thể cùng lúc hiểu rõ nguyện vọng của mỗi người đây ? Thật ra, Phật, Bồ Tát đối với những khởi tâm động niệm của chúng ta đều vô cùng hiểu rõ, bởi vì tâm của mỗi người chẳng có cái nào chẳng hiển hiện rõ trong cái chơn tâm của Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát vốn dĩ chẳng cần dùng mắt để xem, càng chẳng cần dùng tai để nghe, mỗi một tâm niệm của chúng sanh không có cái nào là chẳng rõ. Kế đến nữa, cái nên nghiên cứu rõ tường tận là “ nhãn tiền ” trước mắt ). Cái từ này có hai ý nghĩa :

 

Một là “ hiện tiền ” ( hiện ngay trước mắt ), chính là cái gọi là “ xa tận chân trời, gần ngay trước mắt ”, cũng chính là chỉ cảnh giới của cự ly gần đối với mắt.

 

Mắt nhìn thấy sắc trần thì tâm ý thức thứ sáu đồng thời khởi tác dụng, toàn là vọng tưởng phân biệt, đấy là tình hình “ sau khi mắt nhìn thấy rồi ”, nên là “ nhãn hậu ” chứ chẳng phải là “ nhãn tiền ”

Hai là “ trước khi mắt chưa nhìn xem ” . Căn trần chẳng tiếp xúc nhau thì thức chẳng phát sinh từ đâu, cho nên “ nhãn tiền ” ( trước mắt ) là chỉ “ trước khi tâm chưa động ”, tâm đầu, chính là cái gọi là “ đại đạo rõ ràng nơi tâm đầu ”. Tâm đầu chính là nguồn gốc của tâm, nguồn gốc của tâm chính là bổn tánh chơn như sáng tròn. Các Tổ Sự Đại Đức của thiền tông muốn người học ngộ được “có thể thấy là ai ? ”, “ người niệm phật là ai ? ” , nếu có thể ngộ đến “ đồng thần của trước mắt ” thì chẳng phải là nhãn thức nhìn thấy sắc trần, mà là “ kiến tánh ”, nhìn thấy ngọn đèn mẫu chiếu rọi soi sáng, ngay lúc ấy tức là một con đường lớn ( đại đạo ) khang trang trở về Lí Thiên. Nói triệt để một chút, “ ngay lúc ấy tức là Lí Thiên ”; như thế “ Tây thiên tuy xa ngay tức khắc đến ”, nếu như có thể chứng ngộ tự tánh như như bất động, lúc nào cũng “ thường trụ chơn tâm ” thì ở đâu chẳng phải là Vô Cực Lí Thiên ?

 

「一指中央會,萬八得超然」 “ Nhất chỉ trung ương hội, vạn bát đắc siêu nhiên ” . Ngay trong khoảnh khắc ấy của “ nhất chỉ trung ương hội ” của Minh Sư, tâm của người cầu đạo cũng theo đó mà thâu nhiếp trở về bên trong, ,「飛身來上岸」“ phi thân lai thượng ngạn ”

「飛身」Phi thân biểu thị cấp tốc,

「來上岸」lai thượng ngạn biểu thị thành tựu. “ phi thân lai thượng ngạn ” nghĩa là cấp tốc thành tựu.

「一指」“ một chỉ ” ngay lúc ấy , đem cái tâm tạp loạn thâu nhiếp trở về.

「中央會」“ trung ương hội ” là khế nhập nghĩa đế thứ nhất của trung đạo.

 

「一指」“ một chỉ ”,「中央會」“ trung ương hội ”để tiện cho việc thuyết minh cho nên miễn cưỡng phân ra, sự thật thì “ một chỉ ” ngay lúc ấy tức “ trung ương hội ”, hai thứ chẳng thể tách rời. Một điều khác nữa nên biết là “ huyền quan khiếu ” là cánh cửa, cửa khiếu này là then chốt sở tại “ trừ vọng hiển chân ” khế nhập huyền diệu, tuyệt đối chẳng nên ngộ nhận rằng “ huyền quan khiếu ” chính là tâm. Một chỉ của Minh Sư là mượn nhờ huyền quan đốn trừ vọng tâm, khế nhập chơn tâm. Do vậy, một chỉ của Minh Sư ngay lúc ấy căn trần đốn đoạn ( đốn : đột nhiên, ngay lập tức đoạn : đứt ) , khế nhập vô sanh. Một niệm thanh tịnh ấy chẳng khác gì Tây Phương tịnh độ, có thể biết rằng : một chỉ ngay lúc ấy tức “ hiển chơn ”, một chỉ ngay lúc ấy “ đến bờ bên kia ”.

 

“ Trung Dung ” rằng “ hỷ nộ ai lạc chi vị phát, vị chi trung ” ( khi những hỷ nộ ái ố ở trong lòng chưa thể hiện ra ngoài thì gọi là Trung ). Một chỉ ngay lúc ấy tức trở về đến “ Trung ” của một niệm chưa phát.

 “ Tâm tánh hợp nhất ” gọi là hội. Do vậy, “ một chỉ điểm ” tức là “ biết được bổn tâm của mình, nhìn thấy bổn tánh của tự mình ”. Ngay lúc ấy tương ứng với tâm thanh tịnh của tự tánh, do đó nói “ trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành phật ”. Đấy chính là đạo lý “ một chỉ ngay lúc ấy thành Phật ”. Cái gọi là : “ nhất niệm tương ứng nhất niệm phật ”nếu có thể tinh tiến tu trì “ niệm niệm tương ứng, niệm niệm phật ”, cho nên Hoạt Phật Ân Sư đặc biệt dặn dò thúc giục rằng sau khi cầu đạo nhất định phải 「終日煉神光」“ chung nhật luyện thần quang ”niệm niệm quay trở về bổn xứ ( huyền quan khiếu ), hồi quang phản chiếu, tồn tâm dưỡng tánh, dưỡng cái nguyên thần này. Cho nên, toàn bộ quá trình bàn đạo chính là giống như một đợt Pháp Hoa thịnh hội, được Phật thọ kí, tương lai nhất định thành Phật, là pháp môn chẳng thể nghĩ bàn.

 

“ Phật thuyết kinh A Di Đà ” nói pháp môn niệm phật tịnh độ là “ pháp khó tin ”. Hiện tại “ nhất quán chân truyền ” của một chỉ liễu sanh tử càng khó tin hơn so với pháp môn niệm phật, là thực hiện của cái “ sáng nghe đạo tối chết cũng được ! ” mà Khổng Tử đã nói, nếu chẳng phải là có duyên gặp được thì sao có thể dễ dàng mà tin được ? quả thật là pháp khó tin trong cái khó tin.

 

「萬八得超然」” vạn bát đắc siêu nhiên ” là đang nhắc nhở chúng ta nhất định cần phải hồi quang phản chiếu, hàng phục vọng tâm. Duy chỉ có như vậy mới có thể chẳng trụ nơi tất cả mọi vật mà được siêu nhiên ( siêu thoát ), nếu không, tâm trụ nơi trần cảnh, tùy theo vật mà trôi, nhấp nhô lên xuống thì làm sao có thể siêu thoát ?

 

Điểm truyền sư trước khi vì chúng ta điểm đạo, Thượng Chấp Lễ lại nói : “ bình tâm tĩnh khí, mắt nhìn phật đèn, tĩnh đợi điểm huyền ”, như Lục Tổ trước khi vì Trần Huệ Minh thuyết pháp, hai người tĩnh mặc hồi lâu, muốn ông ta “ ngưng nghỉ các duyên, chớ sanh một niệm ”. Huệ Năng rằng : “ chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đang khi ấy cái nào là bổn lai diện mục của Thượng Tọa Minh ? ”. Nhất định phải “ thiện ác đều chớ suy lường ”, buông xuống sự chấp trước của hai bên mới có thể khế nhập trung đạo, khôi phục bổn lai diện mục thanh tĩnh.

Số lượt xem : 1099