Long Hoa Tam Hội phổ độ thâu viên
Di Lặc Tổ Sư dùng phương pháp thích hợp tạm thời để khiến cho những chúng sanh chưa thể kiến tánh thành phật có một chỗ dựa chẳng thoái chuyển, đem chúng sanh từ nhân gian nhiếp vãng về Đâu Suất Đà Thiên để bảo vệ phật căn chẳng thối chuyển, và ngài đích thân dùng thân cuối cùng của Bồ Tát – thân Nhất Thiết Bổ Xứ Bồ Tát làm chủ của Đâu Suất Thiên, chủ trì thiên phật viện, ngồi kiết già trên tòa hoa sen, ngày đêm 6 thời thường nói về sự thực hành pháp luân Bất thối chuyển. Trải qua một thời gian, Bồ-tát giáo hóa thành tựu 500 ức thiên tử, làm cho họ được Bất thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như thế, Bồ-tát ở cung trời Đâu Suất Đà ngày đêm thường nói pháp Bất thối chuyển này để hóa độ các thiên tử.
Đến lúc nhân gian hóa thành tịnh độ ( hoàn thành việc thực hiện thế giới đại đồng ), Di Lặc Tổ Sư sẽ dẫn dắt tất cả các phật tử của Đâu Suất Thiên giáng sanh Diêm Phù Đề, và ngài chứng phật dưới cây bồ đề Long Hoa tại nhân gian, tổng cộng 3 lần thuyết pháp đại chuyển pháp luân “ hội đầu tiên thuyết pháp quảng độ các thanh văn, khiến cho 96 ức người ra khỏi phiền não chướng. Hội thứ hai thuyết pháp, quảng độ các Thanh Văn, khiến cho 94 ức người ra khỏi biển vô minh. Hội thứ 3 thuyết pháp, quảng độ các Thanh Văn, khiến cho 92 ức người tâm thiện điều phục ”
Việc khiến cho những người có thể tham dự hội này đều có thể gặp phật nghe pháp để siêu sanh liễu tử, hoàn thành việc đại thâu viên của linh tánh, đấy chính là nguồn gốc nguyên nhân của “ Long Hoa Tam Hội ”.
Nay đúng vào lúc ngọ mùi giao nhau, tam kì ứng vận, mà sự ứng vận cuối cùng nhất của vị phật thứ 10 – Phật Di Lặc là để đạt đến hoàn thành nhiệm vụ của thập phật viên mãn trị thế của nguyên hội này.
Do vậy Chư thiên tinh đẩu hạ phàm, nhiều Tiên Phật đích thân đến nhân gian là vì tam tào đại sự, mạt hậu nhất trước, Di Lặc thâu viên.
Do vậy ở thời vận này, ngoài việc kế thừa hương hỏa tân truyền của tổ sư đời đời, còn phải rộng truyền phước âm, kỳ vọng các anh em đồng bào trong thiên hạ đều có thể được hưởng thiên ân này, cùng hướng đến Long Hoa Đại Hội ! ( đấy là ý nghĩa thần thánh của việc khai hoang ).
Thâu viên đại sự, Tam Tào chấn động, do vậy Long Hoa thâu viên lần này thật sự là đường kim tuyến “ mạt hậu nhất trước ” của bổn nguyên hội cho các nguyên linh trở về cố hương.
” Thâu viên ” khiến cho tất cả mọi thứ đều đạt đến cảnh giới viên mãn chí chân, chí thiện, chí mĩ.
Bổn nguyên hội trời định thập phật chưởng giáo, thất phật trị thế, tam phật thâu viên. Đấy là sự viên mãn của thiên vận vận chuyển của một nguyên hội, do đó Di Lặc Phật là then chốt lớn của mạt hậu thâu viên.
Thâu viên tức là hóa sự khác biệt thành đồng nhất ( hợp đồng ), hóa thô bạo hung ác thành cát tường ôn hòa, hóa sự hỗn loạn thành an định, hóa khổ nạn thành hòa lạc, hóa nghèo nàn thiếu thốn thành phong phú đầy đủ. Thâu vạn thù quy nhất bổn, trừ vọng tồn chơn, khứ tà hiển chánh, thâu dọn cái ác, lưu giữ cái thiện.
Do vậy bất kể là hội Liên Trì của Phật Nhiên Đăng, hội Linh Sơn của Phật Thích Ca, hoặc hội Long Hoa của Phật Di Lặc, những chân lý mà các ngài đã truyền đều là giống nhau, chỉ là có chỗ khác nhau ở phương pháp ứng duyên và phương thức trên nhiệm vụ không gian thời gian mà thôi.
a. Thâu viên đối với nhân loại của thế giới mà nói là hóa vài chục ức người thành người một nhà ( hợp đồng ), hóa thế giới hỗn loạn không ổn định thành thế giới đại đồng, hóa thế gian của những khổ nạn ô trọc thành cõi tịnh độ nhân gian.
2. Đối với thiên môn vạn giáo mà nói, thâu viên là đoàn kết hòa bình các quốc tịch, đất đai lãnh thổ, chủng tộc, giáo phái. Cũng có nghĩa là trên chân lý, trên tâm tánh chẳng có giáo biệt, chẳng có môn hộ chi kiến ( chẳng có chia thành bè phái, thiên về lý luận, học thuyết của môn phái mà mình sở thuộc, đối với những môn phái khác thì có thiên kiến ). Di Lặc Phật nếu ứng vận kiếp này, có thể nói là hóa thân trở lại của Ngũ Giáo Thánh Nhân. Các tín đồ của phật giáo thì xem là sự ra đời của Phật Di Lặc; đạo giáo, nho giáo thì xem là sự tái sanh của Lão tử, Khổng Tử; Các tín đồ của thiên chúa giáo thì tôn là sự trở lại của chúa Giê su; các tín đồ hồi giáo chắc chắn sẽ xem là sự tái thế của Mohammad. Do vậy tín đồ của các giáo môn sẽ vẫn có phong cách và ngôn ngữ pháp môn của họ, mà người người quy y chân lý và đại nguyện của Phật Di Lặc.
3. Đối với Tam tào mà nói, bất luận là nhân tào hoặc là thiên tào ( chư tiên của khí thiên ), địa tào ( u minh quỷ hồn ) đều có thể cùng hướng đến Long Hoa Hội, gặp phật ( Phật Di lặc ), nghe pháp, đắc pháp ích vô thượng mà chứng quả.
4. Đối với cá nhân mà nói, người thuộc căn của 3 thừa do thâu viên mà thâu ác niệm thành thiện niệm, thâu tà kiến thành chánh kiến, thâu vọng tâm thành chân tâm. Viên nhân tánh mà chánh nhân đạo, phối thiên đạo mà tải địa đạo. Nếu là người thượng thượng căn, do thâu viên mà thấy phật tánh, chẳng có chấp trước Không và cũng chẳng có chấp trước sắc; chẳng nhiễm ác cũng chẳng chấp thiện; chẳng nhập tà kiến và chẳng cao ngạo về chánh kiến, chẳng khởi vọng tâm, cũng chẳng cầu chân tâm, ngay lập tức hiểu rõ bổn tánh, kiếp này rõ, mà kiếp kiếp rõ, vĩnh viễn chẳng mê muội nữa. Chẳng những làm chủng tử pháp luân của nguyên hội sau, mà còn là của mỗi một nguyên hội, trải qua nhiều kiếp cứu thế, vui vẻ từ bi bố thí, hoàn toàn dung hợp với tam bảo, đồng tại với pháp giới mà chứng pháp thân Như Lai.
” Thâu viên ” thật sự là chỗ quy về của chúng sanh. Hãy xem xem, nhân gian bây giờ biển khổ mênh mông, tai kiếp chẳng dứt, đều là do tâm người mất đi sự viên mãn vốn có gây ra. Do vậy, nếu muốn hóa biển khổ này thành tịnh độ, thật sự phải dựa vào sự thừa nguyện cứu thế của Phật Di Lặc – vị phật đời vị lai. Cõi tịnh độ nhân gian viên mãn cực lạc ai mà chẳng muốn hướng đến ? thế nhưng ai mới có tư cách này, sống ở cái cảnh thù thắng này ? Đấy hoàn toàn phải xem bản thân nhân loại có thể thâu viên bản thân mình trước hay không ?
Phàm là những người không thể thâu viên bản thân mình đều sẽ tự nhiên đào thải bên ngoài đại thâu viên mà vĩnh viễn chìm trong lục đạo luân hồi. Duy chỉ có thâu viên bản thân mình trước, từ bỏ thói hư tật xấu, sửa đổi tập tánh, tuân theo đạo đức, giữ cang thường. Chánh nhân đạo, trung hiếu nhân ái đều chẳng thiếu, tín nghĩa làm chuẩn tắc, thanh tịnh từ bi ôn hòa mới có thể tương ứng với đại thâu viên của đất trời mà ở tịnh độ nhân gian.
Một xã hội tốt đẹp, lương thiện, hòa lạc, giàu có sung túc tức là tịnh độ nhân gian, là nguyện vọng chung của nhân loại từ cổ đại cho đến nay. Chúng ta chẳng phải là phải rời khỏi thế giới trước mắt, hướng đến chỗ khác mới có tịnh độ có thể tìm kiếm, mà là phải đem cái nhân gian khổ hải vô biên, do nhân loại đích thân tịnh hóa tâm linh, kiến lập lại đạo đức mà cải tạo thành cõi tịnh độ nhân gian.
Sự ứng vận thâu viên của Phật Di Lặc thật sự là phước âm và hy vọng của toàn nhân loại, cũng là tổng y quy của tánh mạng toàn thể nhân loại. Do vậy, kỳ vọng rằng các hiền đồ bạch dương chúng ta mọi người đều có thể hiểu rõ trọng trách mà mình gánh vác là sự quang minh và kí thác của chúng sanh. Mọi người ở trên bổn phận của mình làm tấm gương tận trung, tận hiếu, toàn nhân, toàn nghĩa mới chẳng phụ việc chúng ta gặp được chân đạo, liễu nguyện đồng trợ thiên bàn.
Kết Luận
Đúng lúc chân tông đại đạo phổ giáng nhân gian này, pháp duyên thù thắng của Di Lặc ứng vận, thân là đệ tử Bạch Dương càng nên thể ngộ sâu từ tâm của Di Lặc để hành công liễu nguyện, sám hối sửa lỗi làm lại người mới, thay đổi khí chất, chẳng ăn thịt của chúng sanh, thân hiện từ bi hành. Nếu có thể “ niệm niệm cổ phật xuất thế, bước bước Di Lặc hạ sanh ” , đấy đã là vô lượng hóa thân của Di Lặc Tổ Sư, lúc nào cũng biểu thị rõ cho người đời, âm thầm chuyển hóa nhân gian thành thiên đường thành tịnh độ, tất có thể hóa giải tai kiếp, hiện ra sự cát tường.
Số lượt xem : 1069