BẠCH DƯƠNG KỲ - Bạch Dương Tu SĩBạch Dương Kỳ 2002

THẬP ĐIỆN DIÊM LA VƯƠNG ( Điện thứ 6 - 10 )

Tác giả liangfulai on 2023-07-19 21:45:41
/THẬP  ĐIỆN  DIÊM  LA  VƯƠNG ( Điện thứ 6 - 10 )

6. 六殿汴城王

 

司掌大海之底。正北沃燋石下。大叫喚大地獄。另設十六小地獄:


 

1‧常跪鐵砂小地獄。

2‧屎泥浸身小地獄。

3‧磨摧流血小地獄。

4‧鉗嘴含鍼小地獄。

5‧割腎鼠咬小地獄。

6‧棘網蝗鑽小地獄。

7‧碓搗肉漿小地獄。

8‧裂皮暨擂小地獄。

9‧銜火閉喉小地獄。

10‧桑火陫烘小地獄。

11‧糞汙小地獄。

12‧牛雕馬躁小地獄。

13‧緋竅小地獄。

14‧錣頭脫殼小地獄。

15‧腰斬小地獄。

16‧剝皮揎草小地獄。

世人怨天尤地,憎惡風雷冷熱晴雨,對北溺便涕泣,偷竊神佛裝塑法身內藏,刮取神聖佛金,妄呼神諱,不敬惜字紙經書,寺塔庵觀前後,潑積穢物,供奉神像,廚灶不潔,不戒食牛犬肉,藏貯悖謬淫書,毀塗勸善書章器皿,雕刻太極圖日月七星,及和合二聖,王母壽星,各上仙佛形相,繡織卍字花樣,在於一切衣服器用,僭服龍鳳衣裙,作賤五穀,囤米望昂者,俱發入大呼喚大地獄。查出所犯事件,應發何小地獄受苦,滿日轉解第七殿,再查有無別惡。凡人在陽間,於三月初八日,持齋誓願,今後不敢再犯,並能每逢五月十四十五十六日,十月初十日,戒不交媾,立願輾轉勸戒者,准免以上諸小地獄受苦。

 

6. Lục Điện Biện Thành Vương 

(Biện Thành Vương ở Điện thứ sáu)

 

*Ngục nầy nằm dưới tầng đá ngầm đáy  biển ở về hướng chính Bắc, tên là “Đại Khiếu Hoán”, nghĩa là  tội nặng hơn, bị hình phạt năng nên khóc la lớn tiếng hơn ngục thứ năm. Có 16 Tiểu Địa Ngục là:-

1‧Thường Quị  Thiết Sa Tiểu Địa Ngục . (cát bằng sắt bắn vào người làm té ngã)

2‧Thỉ Nê Tẩm Thân Tiểu Địa Ngục . (tẩm thân thể bằng phân, nước tiểu)

3‧Ma Tồi Lưu Huyết Tiểu Địa Ngục . (mài ép cho chảy máu)

4‧Kiềm Chuỷ Hàm Châm Tiểu Địa Ngục . (ngậm kim châm , đập bằng chùy)

5‧Cát Thận Thử Giảo Tiểu Địa Ngục . (cắt thận cho chuột ăn)

6‧Cức Võng Huỳnh ToảnTiểu Địa Ngục . (nằm trong lưới gai bị trùng độc cắn đốt đau đớn)

7‧Đối Đảo Nhục Tương Tiểu Địa Ngục . (cối quết thân thể nát bằm)

8‧Liệt Bì Kỵ  Lôi Tiểu Địa Ngục . (lột da căng phơi)

9‧Hàm Hoả Bế Hầu Tiểu Địa Ngục . (lửa đốt trong cổ họng)

10‧Tang Hoả  Phí Hồng Tiểu Địa Ngục .(lửa đốt cháy thân)

11‧Phẩn  Ô Tiểu Địa Ngục . (ăn phân)

12‧Ngưu Điêu Mã Thao Tiểu Địa Ngục . (trâu đạp ngựa dậm)

13‧Phi Khiếu Tiểu Địa Ngục . (oằn oại rên la)

14‧Táng Đầu Thoát Xác Tiểu Địa Ngục . (đập đầu cho chết)

15‧Yêu Trảm Tiểu Địa Ngục . (chém ngang lưng)

16‧Bác  Bì Tuyên Thảo Tiểu Địa Ngục . (lột da phơi trên cỏ)

 

*Những người khi còn sống, chữi mắng trời đất, chữi gió mắng mưa, chê nóng trách lạnh, phá hủy hình tượng thần Phật, ăn cắp của cải chùa miếu, xưng thần thánh gạt người, chẳng kính trọng kinh sách, đem đồ dơ bẩn đổ gần chùa miếu, làm ô uế chùa miếu, cúng tế thần Phật bằng những đồ nấu nướng không tinh khiết, chẳng chịu kiêng cử thịt trâu chó, chứa dấu những sách vở đồi bại, phá hủy sách vở khuyến thiện, phá hủy tượng bát quái, tượng thần thánh tiên Phật, kêu tên thần thánh không chút dè dặt, hủy hoại ngũ cốc, ăn uống bỏ mứa. Đầu cơ tích trữ để làm giàu…

 

Những tội trên đều bị trừng phạt ở ngục Đại Khiếu Hoán nầy, sau khi tra xét kỹ lưỡng thì cho đến những tiểu địa ngục thích ứng mà chịu sự trừng phạt, tiếng kêu la vang trời dậy đất, sự đau đớn khổ sở kề sao cho xiết. Thí dụ như:- bế vựa chờ giá lúa cao mà bán, để người nghèo chịu đói (bế địch trợ hoang), hoặc là gian giảo ngược ngang, bị hành bàn chông nhọn. Chửi gió mắng mưa, kêu tên Thần Thánh chẳng chút kiêng vì ,bị cột trói ngược mà cưa xẻ cắt lưỡi.

 

Hành tội mãn hạn thì chuyển giao cho Ngục thứ bảy xem xét tiếp.

Người nào lỡ phạm tội, biết ăn năn cải hối, vào ba ngày, 15, 16 tháng 5 , phải giữ giới kiêng phòng sự,  ăn chay tụng kinh sám hối, thệ nguyện không tái phạm, gắng làm lành chuộc tội… thì sẽ được Ngài Biện Thành Vương cứu xét miễn giảm tội.

 

7. 七殿泰山王

司掌大海之底。西北沃燋石下,熱惱大地獄。另設十六小地獄:

1‧搥恤自吞小地獄。

2‧冽胸小地獄。

3‧笛腿火逼坑小地獄。

4‧枒權抗髮小地獄。

5‧犬咬脛骨小地獄。

6‧燠痛哭狗墩小地獄。

7‧則頂開額小地獄。

8‧頂石蹲身小地獄。

9‧端鴇上下啄咬小地獄。

10‧務皮豬拖小地獄。

11‧弔甲足小地獄。

12‧拔舌穿腮小地獄。

13‧抽腸小地獄。

14‧騾踏貓嚼小地獄。

15‧烙手指小地獄。

16‧油釜滾烹小地獄。

 

凡在陽世,煉食紅鉛陰棗人胞,酗酒悖亂,浪費無度,搶奪略誘略賣,盜取棺內衣飾,取死屍骨殖為藥,離散他人至戚,將養媳賣與他人為婢妾,任妻溺女,悶死私孩,朋賭分財掉帛,師長教導不嚴,誤人子弟,不顧輕重上下,拷打門徒婢僕致令暗傷得病,魚肉鄉里,裝醉違悖尊長,枉口嚼舌,尖酸搬鬥,變生事端者,逐細查明,在此熱惱大地獄內提出,發交何重小獄受苦。滿日轉解第八殿收獄查治。人間服藥,何物不可取用,將禽獸蟲魚,活活殺命而治病,已大壞其心矣,迺服紅鉛,及婦人陰中之棗,胞臍之類,豈不更壞其心,但食此等穢物,則口舌與婦女之陰戶無異,雖在世多般行善,若誦經咒,非獨無功,且有大罪,冥主斷難寬貸,凡聞此勸者,速宜戒之,只有買放生靈百萬,或從今戒殺,每早漱口,念誦佛號,臨終必有淨孽使者,以燈照除臭穢,得消前愆。人間有竊取被火燒死人骨,及私孩皮肉全身,製配合藥,并竊死屍蠋髏骨殖,買賣為藥,更有遍偷成擔,堅實者,買賣為器具,枯鬆者,擂粉燒窯等用,如是之人,在於陽世,即曾行有功於世之事,勾入陰司,其功別扺他過,本過冥王決不輕減,發入熱惱大地獄,或再發入何小獄受苦之後,應知照第十殿。發往為人之時,割去耳眼手足嘴唇鼻孔之類,使其殘缺一二件報之,如世人有犯過此等惡事者,即肯懺悔,永不再犯,若遇貧難死亡者,購買棺木,或勸助收殮多屍,其家灶神,在於勾使鬼役牌票之上,點一黑點,到時,准免此報。人間偶有荒歉之處,失食倒斃,且有尚未氣絕者,乃割其肉以作饅頭糕餅之餡,而賣與人食,心狠若是,凡割買賣人肉者,解到之時,冥王將犯發交各獄添受諸刑,痛苦四十九日,應請加刑之後,知照第十殿冥王註冊,轉知第一殿冥王,添列生死薄內,發生人道者,使為餓殍,畜生道者,使見穢棄之食,難得入嘴,而餓死報之,除將此等罪魂,不准抵免下世受報之外,凡有誤食之人,過後復食者,亦應報受下世為人,或為畜類,使其咽喉作腫,腹雖餓極飲食皆不能進而死,凡知覺而不復食者,情有可原。如遇歉歲,捐資賑濟,或煮粥施食,或將升合之米給貧,或設薑豆濃湯,在於要路,以救片時,若能令人得此種種實惠者,非惟此過全消,暗增今世現在之善報,更增來生之福壽,以上三條,係本殿文武各判會議二條,大獄使司,亦擬一條,各奏核入本殿議內,吾仍另錄係各判司獄之所擬,附奏天帝批准,照擬並載玉歷,通行各判司獄記名陞賞。復諭人間作孽之事,諸神固已逐件議擬,但尚有如軍政公務儀禮,私造各違禁等情,其未能盡悉者。概遵陽世,帝王國法所定律例,治罪之外,倘有逃躲。移累他人者,泣諭糾察速報等司,准訴顯應。欽遵欽此。世間男婦,若於三月二十七日,持齋北向,立誓懺悔,鈔傳全卷,勸化人間者,准免本殿諸苦。

 

7. Thất Điện Thái Sơn Vương 

 

(Thái Sơn Vương của Điện thứ bảy)

*Ngục nầy nằm ở dưới tầng đá ngầm đáy biển ở về hướng Tây bắc, tên là Địa Ngục Nhiệt Não (nóng bức đau đớn trong đầu). Gồm có 16 tiểu địa ngục là:-

1‧Truỳ Tuất Tự Thôn Tiểu Địa Ngục . (tự ăn năn đau khổ)

2‧Liệt Hung Tiểu Địa Ngục . (rét lạnh ở ngực)

3‧Địch Thối Hoả Bức Khanh Tiểu Địa Ngục . (xẻo bắp vế ném vào lò lửa)

4.-  Xuyên quyền kháng phát Tiểu Địa Ngục . (đâm gò má, bứt tóc)

5‧Khuyển Giảo Hĩnh  Cốt Tiểu Địa Ngục . (chó ăn xương đầu gối)

6‧Úc Thống Khốc Cẩu Đôn Tiểu Địa Ngục . (nhớ lỗi xưa khổ sở, bị chó nhai nuốt)

7‧Tắc Đỉnh  Khai Ngạch Tiểu Địa Ngục . (đóng đỉnh đầu xẻ trán)

8‧Đỉnh  Thạch Tôn  Thân Tiểu Địa Ngục . (đá sập đè thân)

9‧Đoan Bảo Thượng  Hạ Trác Giảo Tiểu Địa Ngục . (chim dữ cắn mổ trên dưới)

10‧Vụ Bì Trư Đà  Tiểu Địa Ngục . (lột da như da heo)

11‧Điếu Giáp Túc Tiểu Địa Ngục . (rút móng chân)

12‧Bạt Thiệt Xuyên Tai  Tiểu Địa Ngục . (kéo lưỡi đâm xuyên qua má)

13‧Trừu Trường Tiểu Địa Ngục . (lôi ruột ra ngoài)

14‧Loa Đạp Miêu Tước Tiểu Địa Ngục . (lừa đạp mèo cắn)

15‧Lạc Thủ Chỉ Tiểu Địa Ngục . (cắt từng ngón tay)

16‧Du Phủ Cổn Phanh Tiểu Địa Ngục . (nấu chảo dầu sôi)

 

*Những người lúc còn sống, ăn uống bừa bãi, bỏ mứa phung phí thức ăn, rượu thịt vô độ, nài ép người phải bán của cải cho mình, trộm cắp quần áo, dấu thây chết để làm thuốc, làm ly tán thân thích của người, mua bán tì thiếp, hiếp đáp vợ con  đến chết, cờ bạc phá của, làm thầy dạy học trò không hết lòng, dạy điều sái quấy cho học trò, truy vấn đánh đập học trò quá ngặt khiến trò bị thương tích hay sinh bệnh, tham lấy của cải hàng xóm, bội bạc sư trưởng, già mồm lẽo mép cãi lẫy trấn áp người, xui giục bày biểu cho người ta tranh đấu lẫn nhau, hồ đồ không tra cứu kỹ lưỡng đã kết tội người khác…Tất cả những tội trên đều được tra xét cẩn thận ở ngục nầy, rồi tùy theo tội mà cho đưa vào ngụ nhỏ tương thích chịu sự trừng phạt. Xong, chuyển đến Điện thứ tám để tra xét tiếp.

 

Những người khi còn sống, lấy cớ làm thuốc để tàn sát loài vật chứ không chịu dùng thảo mộc làm thuốc. Đàn bà chế tạo món ăn mà sát hại quá nhiều sinh vật hay món ăn mà thú nửa sống nửa chết, cũng mang lấy tội nặng. Dù có làm phước khác. Mà không chịu ăn năn giảm bớt những việc sai trái nầy, cũng không được bỏ qua nghiệp tội trên. Phải làm những việc tạo công đức như:- phóng sanh, cứu người, bớt sát sanh, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, khuyên người tu hành làm lành, ấn tống kinh sách khuyến thiện.. thì dù đã lỡ phạm tội nhưng khi chết, được các vị “Tịnh Nghiệt Sứ Giả” (làm thanh tịnh nghiệp tội đã tạo) dùng kiếng chiếu vào người đó, xóa bỏ nghiệp cũ, mới khỏi bị tội ở ngục thứ bảy nầy.

 

Những thầy  thuốc ở nhân gian dùng những thây chết do bị lửa cháy, lấy da thịt chế thuốc, hoặc cắt lấy xương, gân, gan, mật, đầu sọ của người mà chế tạo thành thuốc cao, thuốc bột mà buôn bán… Tội ấy không thể tha thứ ở ngục nầy, dầu có làm phước khác mà  không liên quan nghiệp nầy cũng không giải được. Diêm Vương cũng nhất định bắt vào địa ngục Nhiệt Não hành hình , chịu hết những hình phạt của các tiểu địa ngục. Thí dụ như:-

 

         Bày thuốc phá thai bị quăng lên núi lửa. Khinh khi Tam giáo bị chó phân thây. Nói tục tĩu bị cắt lưỡi. Đàn bà có chồng còn ngoại tình với trai bị đốt nấu trong vạc đồng.

Khi xong rồi, giao cho Ngục thứ mười để đi đầu thai. Nhưng kiếp đó, phải chịu những dị tật :- đui, què, mẻ,  sứt … trả đền tội cũ. Tuy nhiên, cũng có phương pháp để hóa giải bớt là, chân thành ăn năn sám hối, thệ nguyện không tái phạm, làm được những điều lành như  :-

Thí tiền, thí thuốc, thí cơm cháo; Bắc cầu, sửa đường cho thiên hạ đi, Thí quan tài và đồ liệm, Nhiều năm bố thí cho người nghèo, dân đói; Cất chùa, sửa am; Hết lòng phụng dưỡng kính yêu cha mẹ, cần mẫn thuốc thang giúp người  khi bịnh hoạn…

 

*Khi làm được những việc trên, lúc quỷ sứ đến bắt hồn người chết, Định Phước Táo Quân  thờ trong nhà người đó sẽ chấm một điểm vào tấm lệnh bài để xác nhận, thì sau nầy lúc xuống ngục sẽ được miễn giảm hình phạt.

 

Trên thế gian cũng có những người, vào những năm mùa màng thất bát, khắp nơi đói rách, họ cắt thịt người chết đem bán cho người khác ăn để sống, dã tâm ác độc vô cùng.Những người pham tội cắt thịt nầy, khi bị áp giải đến ngục thứ bảy nầy, Diêm Vương sẽ gia tăng hình phạt thêm lên. Mãn hạn hình phạt thống khổ 49 ngày rồi, sẽ được giải đến Điện thứ mười,ghi chú vào sổ sách, lại chuyển về Ngục thứ nhất để cho đầu thai làm người hoặc súc sanh, bụng lúc nào cũng đói muốn ăn, nhưng khi thấy đồ ăn thì có mùi hôi thúi, không dám ăn, chịu sự đói khát thường xuyên, để trả lại quả báo cũ.

 

*Những trường hợp lỡ phạm như thế rồi, thì phải hết sức lập công bồi đức chuộc tội, bằng cách bố thí cơm cháo cho người đói khổ những năm bị mất mùa, lập trai đàn chẩn tế cô hồn ngạ quỷ,bố thí cho người nghèo gạo thóc thuốc men thật nhiều. Lại phải thành tâm sám hối ăn năn, in ấn kinh sách khuyến thiện như Ngọc Lịch, Minh Thánh …để giúp người hiểu biết làm lành lánh dữ …thì khi chết mới được Diêm vương tâu lên Ngọc Đế xin miễn giảm tội .

 

Như thế  đủ biết, khi còn sống có thể che dấu để thoát vương pháp thế gian, nhưng khi chết rồi thì một mảy may cũng không thoát khỏi đền tội. Trong sách nói:- “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (lưới trời tuy thưa mà khó lọt) là như vậy !

 

*Muốn sám hối những tội lỗi lỡ tạo như trên, vào ngày hai mươi bảy tháng ba , phải thành tâm sám hối, ăn chay tụng kinh, day mặt về hướng Bắc mà van vái cầu xin Ngài Thất Điện Thái Sơn Vương phù hộ độ trì cho bớt tội. Lại phải thệ nguyện không tái phạm, làm những điều lành đã nêu thì mới mong giảm được tội hình nơi ngục nầy.

 

8.  八殿都市王

 

司掌大海之底正西沃燋石下,大熱惱大地獄。另設十六小地獄:

1‧車崩小地獄。

2‧悶鍋小地獄。

3‧碎剮小地獄。

4‧浶孔小地獄。

5‧翦硃小地獄。

6‧常圊小地獄。

7‧斷肢小地獄。

8‧煎臟小地獄。

9‧炙髓小地獄。

10‧爬腸小地獄。

11‧焚膲小地獄。

12‧開瞠小地獄。

13‧剮胸小地獄。

14‧破頂撬齒小地獄。

15‧瓟割小地獄。

16‧鋼叉小地獄。

 

世人若不知孝,親存不養,親歿不葬,使父母翁姑,有驚懼愁悶煩惱等心者,若不速悔前非,懵懂日久,灶神先將此等男女,記名上奏,減除衣祿,聽任邪鬼隨身作祟,死後受過前殿各獄諸刑,解到本殿牛頭馬面,各卒倒拖鬼犯,擲入大獄受苦,再交各小獄分別加刑,受盡痛苦,解交第十殿轉劫所內,改頭換面,永為畜類。如有世間男女,遵信玉歷,輒悔前非,於四月初一日,誓改不犯,并可無論日月早晚,對向灶神立誓,從今知改者,臨死本宅灶神,分作三等,或在額上寫一遵字,或一順字,或一改字,交勾使鬼卒,帶至第一殿起至第七殿,即犯他罪,悉皆減半,免解本殿受苦,即交第九殿,經查無放火陰毒等事者,隨交第十殿分別發生人道,大帝加恩血諭,再若鈔傳玉歷,能使世間男婦人等知警者,自第一殿至第八殿各苦悉免,九殿再查,如無過犯,即交第十殿,發往福地投生人道。

 

8. Bát Điện Đô Thị Vương 

 

(Đô Thị Vương của Điện thứ tám)

*Ngục nầy ở dưới tầng đá ngầm đáy biển ở về hướng chính Tây, tên là “Địa ngục Đại Nhiệt Não”. Có 16 tiểu địa ngục là :-

1‧Xa Băng Tiểu Địa Ngục . (xe cán)

2‧Muộn Oa Tiểu Địa Ngục . (nồi buồn rầu)

3‧Toái Quả Tiểu Địa Ngục . (nghiền xương)

4‧Lạo Khổng Tiểu Địa Ngục . (các lổ ra nước)

5‧Tiễn Chu Tiểu Địa Ngục . (kéo cắt thành miếng nhỏ)

6‧Thường Thanh Tiểu Địa Ngục . (chuồng nhốt)

7‧Đoạn  Chi Tiểu Địa Ngục . (chặt tay chân)

8‧Tiễn Tạng Tiểu Địa Ngục . (xẻ các tạng phủ)

9‧Chích Tuỷ Tiểu Địa Ngục . (đâm lấy tủy)

10‧Bà Trường Tiểu Địa Ngục . (kéo ruột)

11‧Phần Tiều Tiểu Địa Ngục . (coi lò)

12‧Khai  Sanh Tiểu Địa Ngục . (bắt nhìn thẳng)

13‧Quả Hung Tiểu Địa Ngục . (đục thủng ngực)

14‧Phá Đỉnh  Khiếu Xỉ Tiểu Địa Ngục . (đục đỉnh đầu, bẻ răng)

15‧Trảo Cát Tiểu Địa Ngục . (cắt rút móng)

16‧Cương  Xoa Tiểu Địa Ngục . (chĩa bằng gang)

 

*Những người khi còn sống trên thế gian không hiếu thảo với cha mẹ, lúc cha mẹ còn sống không nuôi dưỡng, lúc cha mẹ chết không lo tống táng. Thường gây ra những lo âu phiền muộn đau khổ cho cha mẹ ông bà, lâu ngày mà chẳng chịu hối cải. Táo Quân dâng sớ tâu lên thiên đình, giảm trừ bớt y lộc tuổi thọ của người đó. Những người nghe lời xúi biểu của tà đạo, làm những điều ác đức xằng bậy,  khi chết thì đứa con bất hiếu tới điện nào cũng bị hành phạt hoặc bị xay, cưa, đốt, giã, bị phanh rã tim gan, hoặc bị xe cán. Chứa xâu lường của, trù ếm, chửi rủa, đồ dơ giặt đổ rạch sông, uế trược đến chỗ thờ, phơi áo quần dơ không nể Tam quan v.v. . . bị xô xuống ao huyết phẩn (Huyết Ô Trì).. .. rồi thì đưa sang ngục thứ tám. Ngưu đầu mã diện và ngục tốt lại đưa vào ác tiểu ngục ở đây để trừng phạt tiếp, chịu đựng không biết bao nhiêu điều thống khổ, tiếng kêu khóc vang dậy gấp nhiều lần nên gọi là “đại nhiệt não”. Thọ hình xong mới chuyển qua ngục thứ mười cho đi đầu thai làm súc sanh.

 

*Trường hợp người nào biết ăn  năn cải hối, tin tưởng vào Ngọc Lịch, Minh Thánh …vào ngày mùng một tháng tư , ăn chay, tụng kinh sám hối, thệ nguyện không tái phạm, được Ngài Đô Thị Vương phù hộ giúp đỡ. Lại đến trước bàn thờ  Táo Quân để cầu xin sám hối, thề không tái phạm, nguyện làm việc lành …Táo Quân sẽ xác nhận bằng cách, người đó khi chết, trước khi bị quỷ sứ dẫn đi, Táo Quân sẽ viết vào trán một trong ba chữ là:- “Tuân”, “Thuận” hay “Cải”. Như vậy, khi hồn người chết đến các điện từ thứ nhất đến thứ bảy, các vua Diêm La  sẽ giảm hình phạt một nửa hoặc hết.

 

*Trường hợp những người phát tâm mạnh mẽ, ra sức sao chép in ấn các kinh sách khuyến thiện với số lượng lớn, giúp được nhiều người hối cải làm lành, được công đức nhiều thì qua điện thứ chín tra xét không phạm thêm tội nào nửa, chuyển sang điện thứ mười cho đi đầu thai vào nơi phước địa.

 

*Công đức ấn tống kinh sách rất lớn, người tu học cần nên lưu ý thực hành.

 

 

9. 九殿平等王

 

司掌大海之底。西南沃燋石下,阿鼻大地獄。密設鐵網。設十六小地獄:

 

1‧敲骨灼身小地獄。

2‧抽筋擂骨小地獄。

3‧鴉食心肝小地獄。

4‧狗食腸肺小地獄。

5‧身濺熱油小地獄。

6‧腦箍拔舌拔齒小地獄。

7‧取腦蝟填小地獄。

8‧蒸頭刮腦小地獄。

9‧羊搐成鹽小地獄。

10‧木夾頂鎈小地獄。

11‧磨心小地獄。

12‧沸湯淋身小地獄。

13‧黃蜂小地獄。

14‧蝎鉤小地獄。

15‧蟻蛀熬眈小地獄。

16‧紫赤毒蛇鑽孔小地獄。

人間凡犯陽世法者帝王制定刑法律例,如十惡中之極惡,應得凌遲斬絞處決,死後受過前各殿諸苦解到本殿者及放火焚燒房屋,製蠱毒,揉肚胎,吸臍氣,耗童精,畫春宮,作淫書,合煉悶香迷啞墮孕等藥,如犯此等事件之人,自聞此玉歷章句,若即劈板燬稿,焚方息念,不傳邪術者,准免各苦,即交第十殿發放往生人道。如聞見此玉歷章句,仍作此等事件者,自第二殿受苦起,至本殿加刑,添設極刑。用空心銅柱,鍊其手足相抱,搧火焚燒燙燼心肝,遍受小獄諸刑之後,落足發入阿鼻大地獄。刀穿肺腑,自口含心,漸漸陷下獄底,受痛無休,直要到那被害者家家原業復舊,個個另投人身,所存畫作及鈔方,凡鬼犯親手置遺,及輾轉臨描鈔刻等物盡絕之後,方准提出此獄,解交第十殿。發生六道,世人如若未犯此等惡端,且肯於四月初八日,或於朔望齋戒立願,收買淫書,春宮邪術等集焚燬者,或鈔傳此玉歷,展轉勸化,至命終時,灶神於額端寫奉行兩字,自第二殿至本殿,凡有別件各罪考功輕減。如富貴者,肯能嚴拿放火兇徒,並搜淫書刻板,示禁招貼,及遺害人間等物者,准蔭現世子孫科甲綿綿,凡貧難孤老之人,若肯勉力,央倩鈔傳玉歷勸化者,准即送交第十殿,發往福地投生。

 

9. Cửu Điện Bình Đẳng Vương

 

(Bình Đẳng Vương của Điện thứ chín)

 

*Ngục nầy nằm dưới tầng đá ngầm đáy biển ở về hướng Tây Nam. Tên là “Đại Địa Ngục A-Tỳ”có lưới sắt bao quanh. Có 16 tiểu địa ngục là:-

 

1‧Xao Cốt Chước Thân Tiểu Địa Ngục . (đập xương gõ vào thân)

2‧Trừu Cân  Lôi Cốt Tiểu Địa Ngục . (kéo gân giả xương)

3‧Nha Thực  Tâm Can Tiểu Địa Ngục . (quạ ăn tim, gan)

4‧Cẩu Thực Trường Phế Tiểu Địa Ngục . (chó ăn ruột, phổi)

5‧Thân Tiễn Nhiệt Du Tiểu Địa Ngục . (dìm thân chảo dầu sôi)

6‧Não Cô Bạt Thiệt Bạt Xỉ Tiểu Địa Ngục . (đai siết quanh đầu, kéo lưỡi, kéo răng)

7‧Thủ Não Vị Điền Tiểu Địa Ngục . (lấy óc trét vào mình con nhím)

8‧Chưng Đầu Quát Não Tiểu Địa Ngục . (đốt đầu moi não)

9‧Dương Súc Thành Diêm Tiểu Địa Ngục . (dê chà xát thành bột)

10‧Mộc Giáp Đỉnh  Sai Tiểu Địa Ngục . (kẹp gỗ siết đầu)

11‧Ma Tâm Tiểu Địa Ngục . (mài trái tim)

12‧Phí Thang Lâm  Thân Tiểu Địa Ngục . (đổ nước sôi vào thân)

13‧Huỳnh Phong Tiểu Địa Ngục . (ong vàng chít đốt)

14‧Hạt Câu Tiểu Địa Ngục . (mọt đục thân thể)

15‧Nghị Chú Ngao Đam Tiểu Địa Ngục . (rang nướng giòn)

16‧Tử Xích Độc Xà Toản  Khổng Tiểu Địa Ngục . (rắn độc tím , đỏ chui vào các lổ trong người)

 

*Người khi còn sống làm những việc cùng hung cực ác, như tội thập ác , phải chịu sự trừng phạt theo phép nước như là xử chém, thắt cổ cho chết v.v… đã đành, khi chết lại còn phải trải qua sự hình phạt của nhiều địa ngục rồi cuối cùng là đến địa ngục A-Tỳ nầy.

Những tội nặng đó là:-

-Phóng hỏa đốt nhà cửa người, nuôi những loại trùng rắn độc để bào chế thuốc độc hại người, cho thuốc phá thai, dùng tà pháp thu hút dương khí người nam, âm khí người nữ … để luyện tà thuật. Viết những văn chương thi phú khêu gợi dục tình (dâm thư—sách khiêu dâm), bào chế các loại thuốc, thức uống làm cho người mê ghiền, sa đọa, khích dâm…

Hình phạt tội nhân ở các tiểu địa ngục như sau:-

 

*Vài thí dụ :-  bớt xén tiền cất chùa, tiền in kinh, sửa ngay ra vạy, phản thầy bất trung bị quăng lên núi đao. Ăn thịt trâu chó, sát mạng vật vô cớ, bị quạ mổ. Phân rẽ vợ chồng, thân tộc của người, viết sách văn thơ khiêu dâm bị chó móc ruột ăn tim. Hãm hiếp hoặc dụ dỗ trẻ thơ mà ăn của bị xay ra bột…Tội bất hiếu:- cột  bằng đồng nung đỏ, bắt phạm nhân trói ôm vào cột, tay chân mình mẫy đều cháy thành than v.v…

 

*A-Tỳ địa ngục là gì ?

Chữ A có nghĩa là không; chữ Tỳ có nghĩa là Cứu hay xen kẻ.
Cũng có nghĩa là Vô Gián. Nghĩa là không có thời gian. Ở đây có 5 nghĩa chính:
Thứ nhất là xả thân sanh báo không có thời gian, nghĩa là sinh rồi chết, chết rồi sinh không biết bao nhiêu lần ở trong địa ngục.
Thứ hai là thọ khổ mãi mãi  không có niềm vui cũng không có thời gian nhất định.
Thứ ba là thời gian không hạn định, vì ở trong vô lượng kiếp số.
Thứ tư là mệnh sống (tuổi tác) không gián đoạn 
Thứ năm là thân thể  không gián đoạn. (không mất đi)
Địa ngục nầy ngang dọc 8 vạn do tuần, từ một người cho đến vô số người cũng đều chứa được đầy ắp trong đó.


Mỗi địa ngục còn có 4 địa ngục lớn nhỏ chung quanh nữa vây bọc. Khi chúng sanh ra khỏi một trong 8 địa ngục Vô Gián nầy rồi, thấy những địa ngục bên cạnh như nước lạnh mát mẻ, khởi tâm thích mới chạy vào đó; không ngờ đó là địa ngục thiêu đốt, địa ngục rang nướng, cưa xẻ….tội nhân cứ chết đi sống lại, rồi bị hành hình thọ quả. Nhiều khi muốn chết mà cũng không thể chết được. Vì quả báo thọ chưa xong.

 

*Những kẻ phạm tội như dưới đây vào Vô gián Địa Ngục: Kẻ bất hiếu với cha mẹ, cho đến giết hại cha mẹ. Kẻ đâm chém Phật đổ máu, hủy báng Tam bảo, chẳng kính Tôn Kinh, phá hoại sự hòa hợp của chư Tăng. (gọi là tội ngũ nghịch).

 

*Kế đến, nhẹ hơn một chút là những kẻ xâm lấn tổn hại chùa chiền, làm ố uế tăng ni, hay ở trong nhà chùa mà dâm dục hoặc giết, hại nhơn vật. Kẻ giả bộ thầy tu, chẳng có tâm thầy tu, dùng phá đồ vật của cải nhà chùa, lường gạt người tại gia, làm trái giới luật, tạo ra rất nhiều tội ác. Kẻ ăn trộm ăn cắp của cải, đồ đạc, lúa gạo, thức ăn uống, quần áo của nhà chùa, người ta không cho mà cũng lấy v.v… không vào ngục vô gián nhưng phải chịu sự hình phạt ở hai ngục :- nóng và lạnh, sau khi  thân bị lửa thiêu còn bị đoạ  thân qua nơi cực lạnh ,gió lạnh thổi như dao cắt toàn thân chịu thống khổ không thể tả.

 

*Muốn giảm phần nào hình phạt sau nầy, những người trót  lỡ phạm tội nặng (trừ tội ngũ nghịch đã kể trên) phải hết sức thành tâm ăn năn hối cải, ăn chay, tụng kinh sám hối, thu hồi và hủy bỏ tất cả những sản phẩm, phương tiện sai trái đã làm , ấn tống thật nhiều kinh điển khuyến thiện, giúp người cãi dữ làm lành, cứu mạng nhiều người, bố thí cơm ăn, áo mặc, thuốc men trị bệnh cho nhiều người nghèo đói khổ sở  v.v…rồi vào ngày mùng tám tháng tư, vái nguyện với Ngài  Bình Đẳng Vương ở Điện thứ chín xin sám hối tội lỗi đã tạo, nhiều năm làm như vậy, sẽ được giảm bớt hình phạt ở các tiểu địa ngục và miễn qua địa ngục lạnh.

 

Những người không rơi vào ngục vô gián thì sau khi chịu hình phạt lâu dài ở ngục thứ chín nầy, chuyển qua ngục thứ mười cho đi đầu thai làm kiếp thú, mãn trăm kiếp thú rồi mới được làm người. Nhưng làm người cô độc, bị bỏ rơi, nghèo khổ, đói khát triền miên, sống tạm bợ lây lất cho đến mãn kiếp (nghĩa là chỉ đở hơn địa ngục một chút thôi, gọi là dư báo). Nhiều kiếp như thế, nếu biết ăn năn sám hối tu hành thì mới được chuyển dần đến chỗ có phước đức.

 

10. 十殿轉輪王

 

殿居幽冥沃燋石外,正東直對世界五濁之處,設有金銀玉石木板奈何等橋六座,專司各殿解到鬼魂。分別核定,發往四大部洲何處,該為男女壽夭富貴貧賤之家投生者,逐名詳細開載,每月彙知第一殿,註冊送呈酆都,陰律凡胎卵濕化,無足兩足四足多足等類,死就為魙,輪推磨轉,或年季生死,或朝生暮死,翻覆變換,為不定殺,為必定殺之類,概令轉劫所內,查較過犯,分發各方受報,歲終彙解酆都。凡陽世讀易儒士,誦經僧道,勾至陰司,念誦聖經咒語,致諸獄不能用刑。使受苦報者,解到本殿,逐名註載,并繪本來面目,名曰墮落生冊,押交孟婆尊神(酉區忘臺)下。灌飲迷湯,派投人胎,轉世死於腹中,或生一二日,或生百十日,或一二年促死,使忘三教真言之後,第一殿,加差厲卒,勾到各獄查察前惡,補受苦報,凡解到功過兩平,及已受苦滿,功少過多等魂,酌定為男女妍醜安勞,發往何方富貴貧賤之家者,即交(酉區忘臺)下本殿點名發放,往生人道中。屢有婦女哀求,供稱有切齒之仇未報,甘為餓鬼,不願做人,妍詢情由,多係閨女,或係貞潔之婦女,因被讀書中之惡少,或貪姿色,或圖財物,裝盡風騷諸般投好,計誘成姦,誑云未有妻妾,誓必央媒聘娶,或有甜騙婢女,娶納為妾,或有謊許養老其婦,或允撫養伊前夫之子女等情事不等,誤被計騙,癡心順從,失節相贈之後,耽延日久,反出惡言揚醜,致令父兄知覺,親鄰鄙賤,冤無可伸,羞忿尋死,或得鬱症而亡者,聞知負心賊子,今科該中,此恨難消,號泣求准索命等情,細查事果真實,但該生陽壽,尚未該終,并伊有祖父之餘德未滅,本殿姑准婦女搴票,魂入科場,阻惑違式,更換榜上之名,再俟應絕之日,准同勾死鬼進門索命,仍在第一殿查核判斷。世人若於四月十七日,誓立信心,遵奉玉歷知警行事,常將以上諸語向人談說者,來生發往陽世為人,不受鄙薄,不遭官刑水火傷體等項之災。

 

10. Thập Điện Chuyển  Luân Vương 

 

(Chuyển Luân Vương của Điện Thứ mười)

 

*Điện thứ mười  ở dưới tầng đá ngầm của cõi U Minh, về phía chính Đông đối với thế giới ngũ trược (trọc) nầy.

 

*Có tất cả là sáu loại cầu Nại Hà:- cầu làm bằng vàng, bạc, ngọc, đá, gạch, cây. Điện thứ mười là nơi nhận những quỷ hồn của các điện khác chuyển đến. Sau khi thẩm định phước phần của mỗi hồn, sẽ cho đi đầu thai vào các nơi tương xứng, theo các tình trạng :- nam hay nữ, giàu hay nghèo, sang hay hèn, khôn hay ngu, thọ hay yểu  v.v…Mỗi tháng, các điện sẽ chuyển giao một lần các quỷ hồn đến đây. Việc thọ sanh (đi đầu thai ) nầy rất chi tiết, tỉ mỉ, phức tạp như là :- đường nào trong bốn đường thai, noãn, thấp, hóa;  như loài vật thì có loài không  chân , hai chân , bốn chân hoặc nhiều chân. Có loài thì tự chết, có loài thì bị giết chết…Việc đúc kết rất cẩn thận vì tầm quan trọng lớn lao của nó. Kết quả sẽ ghi kỹ lưỡng cho mỗi quỷ hồn để đưa đến Phong Đô đầu thai.

Thí dụ như:-

 

*Người không kỉnh giấy chữ (sách kinh thánh hiền), rủ nhau ăn thịt trâu chó, phạt làm ăn mày. Không kỉnh người lớn, chẳng vâng lời phải, thầy dạy học trò không tốt bị người vô cớ nói xấu, khinh khi.Người hay nói ra nói vô, xúi người kiện cáo, trước đã bị hình phạt  xô xuống cầu Nại Hà cho rắn cua ăn thịt, nay đầu thai thành người bị vu cáo lãnh án tù đày…

Những nhân sĩ khi sống mà biết ăn chay làm lành, tụng kinh niệm Phật, trì chú v.v… khi khi chết, dược miễn giảm rất nhiều hình phạt ở các ngục.

 

Những quỷ hồn sau khi thọ hình xong ở các Điện, Điện thứ mười tổng kết xong, lập danh sách chi tiết rồi chuyển họ đến “Dậu khu vong đài” (ăn cháo lú quên quá khứ) của Mạnh Bà Tôn Thần . Kế đó mới cho đi đầu thai tùy theo phước nghiệp cân xứng của mỗi người.

 

Trường hợp có những hồn ghi nhớ mãi những câu chân ngôn thần chú của Tam Giáo, nhưng không đủ phước báu vãng sanh, mà không thể quên được quá khứ thì  cho đi đầu thai tạm thời, chỉ sống một thời gian ngắn, hoặc một hai ngày, hoặc vài tháng vài năm …phải chết lần nữa, trở lại “vong đài” uống thuốc mê cho thật quên hết chân ngôn rồi mới đi đầu thai chính thức.

 

Cũng có những trường hợp những người mang mãi mối thù hận quá sâu sắc, không chịu đi đầu thai, chấp nhận kiếp ngạ quỷ để theo đòi báo ứng cho xong, mới chịu tái sanh.

 

Những trường hợp như vậy cũng có rất nhiều vì khi tại thế, đã gây tạo cho nhau quá nhiều hệ lụy, nào là phụ tình, nào là vong ân bạc nghĩa, nào là bị lường gạt đến nổi táng gia bại sản, nào là thù hận ganh ghét chức vụ mà hại nhau, nào là bị áp bức quá đáng… họ đã phát thệ “nhớ mãi không quên” nên phải đi vào con đường quanh co đau khổ nầy. Cho nên biết , “oán thù nên cởi không nên buộc, chẳng những có lợi ngay trong đời nầy, mà còn đở khổ cho lúc tái sanh đời sau”. Nhân gian ráng ghi nhớ !

 

*Khi còn sống, phải nên tự mình làm lành rồi nên khuyên bảo thân nhân, bè bạn, người xung quanh chung sức làm lành. Giúp đỡ, tương trợ nhau; bố thí cơm áo gạo tiền thuốc men cho người nghèo khổ. Sao chép, ấn tống kinh sách khuyến thiện giúp người giác ngộ lánh dữ làm lành. Bản thân phải lo tu học cho tốt, ăn chay, tụng kinh, niệm Phật… làm việc thiện không hề lười mỏi. Vào ngày mười bảy tháng tư, vái nguyện Ngài  Thập điện Chuyển Luân Vương gia trì thêm phước phần ở kiếp sau.

 

第十殿轉劫所:

 

轉劫所週圍上下,俱是鐵柵,內分八十一處,逐處皆有亭臺,判吏設案記事。柵外另有羊腸細路,十萬八千條,盤曲灣通四大部洲。其內暗如煤漆,使魙道死生進出此路,外則望入亮如水晶,絲毫畢露,判派吏役,輪班把守,進出均各仍照初生本來面目分辨無差,凡司此所之判吏,悉係在世孝友,并戒殺放生之善人,送入此所,查辦輪迴轉劫等事。辦過五載,如無舛錯,加級調陞,如有怠惰,或擅專主,不同合所判吏妥議辦理發放或失察漏逃隱匿者,奏請降貶。凡有在世不孝,及多殺物命之兇魂,受過諸獄苦後,發交所內者。用桃條抽死為魙,改頭換面,發進羊腸小路為畜類。凡有禽獸魚蟲,受過萬千百十等劫已滿,如胎生各獸,卵生蛟龍龜蛇飛鳥,濕化相生,蜂蝶蛆蟲之類,使其轉變輪迴受報,復投為胎生等類。劫數已滿,若能三世不傷物命,可使復為人者,敘明冊籍奏呈第一殿,批判發往,弗於逮翟耶尼閻浮提鬱單越四大部洲之中。

 

Đệ Thập Điện Chuyển Kiếp Sở

 

(Sở cho người đầu thai ở Điện thứ mười)

 

* Sở chuyển kiếp nầy trên dưới xung quanh đều có hàng rào bằng sắt, bên trong chia ra làm 81 chỗ. Mỗi chỗ đều có đình đài khang trang, có quan lại ngồi bàn làm việc. Bên ngoài hàng rào, có những con đường nhỏ “ruột dê” (quanh co) , có mười vạn tám ngàn (một trăm lẻ tám ngàn) lối đi, uốn khúc quanh co  dẫn đến “tứ đại bộ châu” .

 

*Bên trong sở, tối om như thùng sơn, chỉ thấy có một con đường để cho người đi đầu thai đi ra  ngõ đó thôi. Bên ngoài nhìn vào giống như thủy tinh, chằng chịt nhiều đường ngang nẻo dọc, có các quan lại làm việc rất bận rộn, nhưng không bao giờ có sự nhầm lẫn . Có những trường hợp xét thêm để cho thăng hay giáng. Như người khi còn sống. có lòng hiếu thảo với cha mẹ hoặc  những người không sát sanh mà còn phóng sanh…làm được nhiều điều thiện, sau năm lần thẩm tra,  được các “thiện quan” tâu xin cho tăng thêm hưởng phước . Trái lại, những người sau khi thẩm tra lại, phát hiện ra còn sót tội, hoặc hình phạt chưa đủ, thì sẽ tâu xin giáng bớt phước , như  những người bất hiếu, sát sanh nhiều…

 

Những người tội nặng, thọ vào thân súc sanh, bị thay đầu đổi mặt, trở thành một trong bốn loài:- cầm (chim), thú (bốn chân), ngư (cá), trùng (côn trùng), là được cho đi vào những đường nhỏ quanh co. Phàm đã thọ thân súc , thì phải trải qua rất  nhiều kiếp, thai sanh thì có các thú, noãn sanh thì có sấu, rùa, rắn, chim …, thấp sanh thì có các loài trùng bọ…Qua nhiều kiếp như thế, mới được lên làm người. Còn những quỷ hồn chấp nhận làm ngạ quỷ, vì không tin vào luân hồi , nhân quả, mang nặng ghi sâu những thù hậnoan1 hờn, sống vất va vất vưởng, không có khái niệm về thời gian. Nếu không có những vị Bồ-Tát từ bi lập trai đàn chẩn tế và cầu siêu cho, thì vẫn mãi mãi đói khát và không có cơ hội để đầu thai kiếp khác. Ngoài ra, nếu lỡ bị đọa vào A-Tỳ địa ngục thì mãi mãi không được trở lại làm người. Như vậy, kinh nói:- “Thân người khó được”, không phải là điều nói quá.

 

第十殿孟婆神:

 

孟婆神,生於前漢,幼讀儒書,莊誦佛經,凡有過去之事不思,未來之事不想,在世惟勸人戒殺吃素,年至八十一歲,鶴髮童顏,終是處女,只知自己姓孟,人故皆稱之曰,孟婆阿奶,入山修真,直至後漢。世人有能知前世因者,妄認前生眷屬,好行智術,露洩陰機,是以上天敕命,孟氏女為幽冥之神,造築酉區忘臺,准選鬼吏使喚。將十殿擬定,發往何地為人之鬼魂,用採取俗世藥物,合成似酒非酒之湯,分為甘苦辛酸鹹五味,諸魂轉世,派飲此湯,使忘前生各事。帶往陽間,或思涎,或笑汗,或慮涕,或泣怒,或唾恐,分別常帶一二三分之病,為善者,使其眼耳鼻舌四肢,較於往昔,愈精愈明愈強愈健,作惡者,使其消耗音智,神魄,魂血,精志,漸成疲憊之軀。而預報知,令人懺悔為善。

臺居第十殿,冥王殿前六橋之外,高大如方丈,四圍廊房一百零八間,向東甬道一條,僅闊一尺四寸,凡奉交到男女等魂,廊房各設盞具,招飲此湯,多飲少吃不論,如有刁狡鬼魂,不肯飲吞此湯者,腳下現出鉤刀絆住,上以銅管刺喉,受痛灌吞,諸魂飲畢,各使役卒攙扶從甬道而出,推上麻紮苦竹浮橋,下有紅水橫流之澗,橋心一望,對岸赤石巖前上,有斗大粉字四行,曰,為人容易做人難,再要為人恐更難,欲生福地無難處,口與心同卻不難,鬼魂看讀之時,對岸跳出長大二鬼分開撲至水面,兩傍站立不穩,一個是頭蓋烏紗,體服錦襖,手執紙筆肩插利刀,腰掛刑具,撐圓二目,哈哈大笑,其名活無常,一個是垢面流血,身穿白衫,手捧算盤,肩背米袋,胸懸紙錠,愁緊雙眉,聲聲長嘆,其名死有分,催促推魂,落於紅水橫流之內,根行淺薄者,歡呼幸得人身,根行深厚者,悲泣自恨在生未修出世功德,苦根難斷,男婦等魂,如醉如癡,紛紛各投房舍,陰陽更變,氣悶昏昏,顛倒不能自由,雙足蹬破紫河車,奔出娘胎,哇的一聲落地,日久口貪滋味,勿顧物命,迷失如來佛性,有負佛恩以及天帝神恩,不慮善終惡死,何樣結局,而復又作拖屍之鬼矣,以上二十二行,係酉區忘臺下書吏,謹附奏玉皇大帝,並纂載玉歷,通行下界知之。

 

Đệ Thập Điện Mạnh Bà Thần 

(Thần Mạnh Bà ở Điện thứ mười)

 

Vị thần tên Mạnh Bà nầy, sinh vào đời Tiền Hán, lúc nhỏ học Nho, sau chuyển qua học Phật. Vị nầy có đặc điểm là “quá khứ thì không nhớ đến, tương lai thì không nghĩ tới” , suốt đời chỉ biết khuyên người ăn chay, làm lành. Đến năm 81 tuổi mà “hạc  phát đồng nhan” (tóc già như chim hạc mà  mặt vẫn như người trẻ), vẫn còn là “xử nữ” (gái  trinh).

Người đời chỉ biết bà họ Mạnh, nên gọi bà là “bà vú Mạnh Bà”. Bà vào núi tu Tiên, tồn tại mãi đến đời Hậu Hán.

 

Trước đây, vì con người sanh ra thì vẫn còn nhớ đến kiếp trước, nên nhớ và tìm đến những quyến thuộc xưa, trí nhớ vẫn tốt nên kể lại chuyện đầu thai, làm tiết lộ thiên cơ (máy trời). Do đó, Thượng Đế mới sắc phong cho họ Mạnh làm người cai quản “Dậu khu vong đài” (đài làm quên) có các quỷ sứ giúp việc. Khi Điện thứ mười đã có quyết định là hồn sanh vào chỗ nào, địa vị ra sao…thì trước khi đi đầu thai , phải đến chỗ “Đài khu vong” nầy. Ở đây, dùng các dược vật trên thế gian, bào chế thành một loại “như rượu mà không phải rượu”, chia ra làm năm vị loại là :- ngọt, đắng, cay, chua, mặn.

 

Các hồn được chuyển thế, phải uống loại nước nầy, quên đi tất cả người và sự việc, cảnh giới của đời trước.Theo thứ tự trên mà quên  đi nhiều hay  ít, lâu hay mau, sâu hay cạn… tùy theo công phu tu hành và phước đức của kiếp trước . Vì thế, người sanh ra, có kẻ khôn người ngu, kẻ học một biết mười, kẻ học hoài chẳng nhớ. Cũng có những người “không học mà biết” là do uống ít “thuốc quên” nầy vậy.

 

Đài khu vong ở Điện thứ mười nầy, nằm phía trước điện và bên ngoài của sáu chiếc cầu Nại hà. Đài to lớn khắp cả vùng đất. Số phòng có đến một trăm lẻ tám gian, hướng đông có con đường đâm thẳng vào, bề ngang hẹp chừng một thước bốn tấc (để hồn chỉ đi hàng một). Các hồn nam nữ được đưa vào từng phòng, mỗi phòng đều có bày sẵn thức uống nói trên, do nghiệp lực mà hồn cảm thấy khát  nước nhiều ít mà uống nhiều hay ít. Còn hồn nào ương ngạnh không chịu uống, thì dưới chân xuất hiện một cái vòng khóa chân lại, trên cổ có một ống bằng đồng chận đè vảo cổ, phải hả miệng ra. Chịu không nổi đau đớn nên phải uống thật nhiều mới tha.

 

Sau khi uống xong, có một quỷ sứ xuất hiện, dắt vào con đường dẫn đến chiếc cầu , bên dưới là một khe  nước đỏ như máu đang chảy xiết. Đứng trên cầu, nhìn thấy phía đối diện có một hòn đá đỏ lớn, có bốn hàng chữ, mỗi chữ  lớn bằng cái đấu (lít), viết như sau:-

 

“Vi nhân dung dị, tố nhân nan,

Tái yếu vi nhân, khủng cánh nan.

Dục sanh phước địa, vô nạn xứ,

Khẩu dữ tâm đồng, khước bất nan”

 

*Dịch:-

“Là người thì dễ, làm người khó,

Muốn lại làm người, càng khó hơn.

Muốn sanh đất phước, không tai nạn

Thì miệng giống tâm, chẳng khó gì”

 

*Lúc hồn đang đọc mấy hàng chữ nầy thì bên phía cầu bên kia, xuất hiện hai con quỷ lớn từ dưới rẻ nước bay lên. Một con thì đầu đội mão “ô sa”, mình mặc áo gấm, tay cầm giấy bút, vai mang đao bén, lưng có đeo hình cụ, trợn tròng cặp mắt, cười to ha hả…Quỷ nầy tên là “Hoạt Vô Thường” (sanh không định trước). Một tên nữa thì mặt mày đầy máu, mình mặc áo trắng, tay cầm bàn toán (bàn tính), vai vác bao gạo, trên ngực có dán tờ giấy, hai cặp chân mày nhăn lại, than dài thở vắn. Quỷ nầy tên là “Tử Hữu Phận” (chết có phần sẵn). Hai tên quỷ nầy nắm chân hồn lôi kéo xuống dòng nước đỏ, tùy theo phước nghiệp mà đè xuống cạn sâu. Cạn thì được hưởng phước, sâu thì phải chịu đọa đày. Hồn lúc nầy ngơ ngơ ngác ngác, chẳng còn biết gì nữa, cứ lo ngóc đầu lên , thì chốc lát đã chui ra khỏi  “tử hà xa” (bào thai, tử cung) của bà mẹ, khóc lên ba tiếng “tu-oa”. Kế rồi lớn lên, ham ăn hốt uống, mê mãi theo đời, mê muội  “Như Lai Phật Tính”, quên hết ơn Trời, Phật, Thánh, Thần, chẳng nhớ làm thiện mà cứ theo đường ác, đến mãn kiếp lại trở về với hồn ma bóng quỷ như lần trước. Thật là tội nghiệp thay cho thân phận người không biết tu hành để giải thoát !

 

Các việc kể trên là do một vị thư lại, làm việc ở “Khu vong đài” theo lệnh Ngọc Đế ghi chép lại trong Ngọc Lịch ,để phổ biến khắp cả cho thế nhân biết mà lo tu hành, cầu đạo giải thoát.

 

枉死城:

 

酆都大帝曰: 「枉死城,係圜繞本殿之右,世人誤以為凡受傷冤枉死鬼悉皆歸入此城之說。遍傳為實,須知屈死者,豈再加以無辜之苦乎。向准冤魂各俟兇手到日眼見受苦,使遭害者以消忿恨,直至被害之魂,得有投生之日,提出解發諸殿各獄,收禁受罪者,並非被害遭屈之魂。概入此城受苦,若是忠孝節義之人,及捐軀報國之軍兵,或有死節成神。或即完膚,發往福地投生,豈亦有入枉死城中受苦之理乎。」

血污池:

血污池,置設殿後之左。陽世誤聞道姑所說,皆因婦人生產有罪,死後入此污池,謬之甚矣。凡婦人生育,係屬應有之事,即難產而暴亡者,均不罪其屍鬼污穢,發入此池。如有生產未過二十日,輒即身近井灶,洗滌衣襖,曬亮高處者,其罪應歸家長三分,本婦罪坐七分,設此污池,無論男女,凡在陽世不顧神前佛後,不忌日辰,如五月十四十五,八月初三十三,十月初十,此五日,男婦犯禁交媾,除神降惡疾暴亡,受過諸獄苦後,永浸其池,不得出頭。及男婦而好宰殺,血濺廚灶神佛廟堂經典書章字紙一切,祭祀器皿之上者,受過別惡諸獄苦後,解到浸入此池,亦不得輕易出頭,陽世能有親屬立願,代為戒殺買命放生,數足之日,齋供佛神,禮拜血污經懺,方可超脫其苦。

世間男婦,見聞眾生急難,力可能救而不為,受人恩惠而忘,記怨而必欲加害,雖屢積功誦經施捨,望成仙道者,死後免入諸獄受苦,罰為魑,魅,魍,魎,山妖,木客,水怪,殭屍,遊魂,或附靈性於狐,狸,熊,顥,蛟,蛇,之類,在百十年之不等,如能修醒,返本糾察,使歸福地,若不善為歛形,迷惑驚嚇人者,作祟,罪惡滿盈之日,雷擊為魙,永世不得超生。

陽世誤尊藏神之名,亦謬之極矣,因係男婦在生埋藏錢財,死後仍迷而不捨,魂魄附守此處之故,慮被起掘,現形驚嚇,凡福薄陽微者,受驚成病,或竟死亡,殊不知此等陰魂,悉是前朝官宦,歷代癡愚,至死不肯醒悟之輩,神鬼因念其在生無甚罪過,仍聽管守,此之謂財癆鬼是也,直到得聞佛經點化,身非我有,五蘊皆空之句,方始猛省,身尚非我所有之物,況財帛乎,遂即棄捨,投生福地,或有久戀之鬼,至死為魙,無奈棄捨,以待積蓄,有福者取之。世人如若見聞鬼怪出現處所。向立重誓禱告,願將十分之三,替作冥福,再將三分,代為買放生靈,一分歸貧,三分歸己,如是發願起取,但有正神相助,可以保受用而無妨礙也。

凡有陽世食糧充當軍兵者,自奉令出剿除叛之日,為始若實心努力,及未犯姦縱火,有害民間,雖死於身首異處,屍骨拋零者,即有往昔過犯,陰司概免受苦,仍准完全原體,自第一殿點名,即交第十殿發往福地投生,為男女安吉善終,加若械鬥,互相殺死,及從賊之叛犯,各皆罪加一等,仍照生前所犯諸獄受苦。

 

Uổng Tử Thành 


*Đại Đế Phong Đô nói:- “Uổng Tử Thành nằm về bên phải của Điện thứ mười. Thế gian hay lầm nghĩ rằng, những người bị tai nạn chết bất ngờ đều phải vào trong thành nầy. Nếu điều đó là thật, thì những người chết oan chết ức đều là tốt hết cả sao ? Cho đến vẫn còn thấy rất nhiều oan hồn chưa tiêu hết phẩn hận, những kẻ tự tử, những kẻ bị hại… vẫn còn đang chịu sự hình phạt trong các điạ ngục, chưa biết ngày nào được đi đầu thai.


Vào trong Thành Uổng Tử nầy, chỉ có những người “Trung hiếu tiết nghĩa, xả thân vì nước (tận trung báo quốc), hoặc tử tiết thành thần. Vì chết bất ngờ nên chưa thẩm định kịp, phải  tạm thời ở đây, chờ ngày để đầu thai nơi phước địa hoặc được phong thần. Như vậy, đây là nơi dành riêng cho những người tốt ở tạm chờ xét. Đó mới đúng là nghĩa của Uổng Tử Vậy.


 Huyết Ô Trì 

 

*Huyết Ô Trì, tức là cái ao bị vẫn đục do máu gây nên.

 

Ao nầy nằm phía sau, bên trái của Điện thứ mười. Người thế gian hiểu sai về ý nghĩa của nơi đây là do từ một vị Đạo Cô đã giảng sai lúc xưa. Vị ấy nói những người đàn bà trên thế gian, khi sanh nở máu huyết làm ô uế đất cát nên phải mang tội, lúc chết bị xuống đây, điều đó là không đúng.
Chỉ là trường hợp những người nữ khi sanh đẻ, bị trục trặc lâm nạn mà chết , vua Diêm Vương không xét tội của người chết đang ô uế, nên mới cho đến đây.Chờ cho đủ mười ngày, người ấy đã tỉnh táo, tắm rửa sạch sẻ thay đổi quần áo rồi mới cho lên điện để xét xử. Còn về việc làm ra sự ô uế, nếu có, thì người sản phụ chỉ chịu bảy phần, người gia trưởng của nhà đó phải chịu ba phần trách nhiệm, chứ không thể đổ hết tội lỗi cho sản phụ.


Vào trong ao nầy, đúng nghĩa là những người bất luận là nam hay nữ,  khi sống đã phạm tội giao hợp với nhau mà không kiêng chỗ thờ phượng trời Phật thánh thần. Cũng không chịu kiêng cử vào những ngày vía, giờ kiêng. Thí dụ như ngày 14, 15 tháng năm; ngày mùng 3 và 13 tháng tám; ngày mùng 10 tháng mười. Năm ngày ấy gọi là “Chưởng tử giới nhật” (ngày kiêng của việc tạo ra con). Phạm vào những ngày nầy, có thể bị thần trừng phạt mắc  ác bệnh mà chết. Sau khi đã thọ xong hình phạt ở các ngục vì tội khác rồi, mới đưa đến đây để bắt họ trầm mình dưới ao nầy, chẳng cho lên bờ.


*Lại có những kẻ hoặc nam hoặc nữ có tánh hiếu sát bừa bãi, lại bất cẩn để cho máu vương vãi, dính vào bếp táo, nơi điện thờ thần thánh Phật, hoặc sách vở thánh hiền , kinh điển, hoặc chén dĩa ở bàn thờ…thì đều phạm tội.


Những người nầy phải chịu sự hình phạt ở các điện về tội khác xong rồi mới đến đây để chịu phạt trầm mình dưới ao không cho ngóc đầu lên. Muốn hóa giải tội nầy, người thân ở dương thế phải ăn chay làm lành, thệ nguyện giới sát và làm hạnh phóng sanh. Làm đủ phước rồi còn tụng thêm “Huyết Ô Kinh Sám” (Kinh sám hối huyết ô) thì phạm nhân mới được giải tội để đi đầu thai.


*Lại có những kẻ nam nữ  ở thế gian, khi thấy có người bị nạn mình có thể cứu được mà lại không chịu cứu, hoặc thọ ơn người mà đã không chịu đền đáp lại còn tính kế mưu hại người ơn, cũng phải chịu tội ở ao nầy. Trường hợp những người nói trên sau đó phát tâm tu hành tích lũy công đức rất lớn, thì khi chết có thể được miễn hình phạt huyết ô, nhưng vẫn phải chịu quả báo thành ra các loài quỷ như:- ly, mỵ, vọng, lượng, sơn yêu, mộc khách, thủy quái, cương thi (thây ma cứng biết đi), hồn vất vưởng đây kia, hoặc nhẹ thì cũng gá tánh linh vào những loài chồn, cáo, gấu, beo, cá sấu, rắn… hàng trăm năm, nếu biết ăn năn tu tỉnh mới được đầu thai, còn nếu không chuyển hóa được trong tâm thì vẫn mãi mãi trụ ở tình trạng như thế.

*Một điểm nữa là, ở thế gian cũng hiểu sai về việc tin có “Thần giữ của”. Thục ra, đây chẳng phải là thần thánh gì cả, mà chỉ là hồn ma của người lúc sống có chôn cất số của cải tài sản nào đó, khi chết vẫn quyến luyến bám theo tài sản để giử của. Nếu có ai đến đào lấy, họ sẽ hiện thành ma quỷ hù nhát người đào, khiến cho người ấy có thể vì quá sợ hãi, sinh bệnh mà chết. Những loại âm hồn kiểu nầy, chẳng kể là dân giả hay nho sĩ quan lại gì cả, nếu có tánh tiếc nuối của cải tài sản đều trở thành “ma giữ của” . Muốn hóa giải nghiệp nầy, chỉ có cách tốt nhât là mời thỉnh những vị đạo cao đức trọng, những vị chân tu có đạo lực, đến tổ chức trai đàn cầu siêu, thuyết pháp cho họ nghe hiểu giác ngộ lẽ vô thường của thế gian. Chính cái thân của mình còn không giữ được, huống nữa là tài sản của cải là những thứ từ ngoài vào, làm sao có thể giữ ch được. Nhờ vậy, họ mới tỉnh ngộ mà phát tâm tu hành, chuyển hóa đầu thai kiếp khác.
*Nếu không có được những vị đạo cao đức dày khuyến hóa, thì người thân có thể tổ chức những buổi cầu siêu, những dịp chẩn tế tập thể thật long trọng , cứu giúp được nhiều người. Sau đó, thành tâm hồi hướng tất cả công đức làm ra “cho tất cả sanh linh được sớm thành Phật đạo”. Được vậy mới khả dĩ hỗ trợ người thân mình thoát khỏi nạn “giữ của” nầy.


*Trường hợp những người vì mạng lệnh nhà vua mà phải lên đường chinh chiến, bất đắc dĩ phải chấp hành, nhưng trong lòng không muốn. Trong lúc làm lính bất đắc dĩ đó, vẫn luôn thương yêu giúp đỡ bạn bè đồng đội, tranh bắn giết bừa bãi dân chúng vô tội …nếu chẳng may bị chết, thì được miễn những hình phạt của các ngục. Đến điện thứ nhất xem xét nghiệp lực rồi chuyển thẳng đế điện thứ mười cho đi đầu thai vào nơi phước địa. Còn nếu, lỡ vào quân ngũ mà lại sanh tâm hiếu sát, băn giết bừa bãi…thì khi chết sẽ gia thêm hình phạt và thời gian gấp đôi. Thế gian hãy ghi nhớ mà làm !

 

黑白無常:

 

「生無常,而死有分」,可用來形容民間對生死一般的看法,而黑白無常二人,是人人都害怕的鬼卒。一般人對黑白無常的印象,大多是停留在黑無常著黑衣,白無常著白衣上,如果一旦看到黑白無常二人,就表示自己陽壽已盡,應該準備後事了。但是,在民間的一些習俗和文化中,黑白無常也不一定是如此令人害怕;有一種說法是,如果遇到了黑白無常,只要向其乞討一些東西,日後必定是大富大貴。而且在民間的一些地方戲劇表演裡也可以發現,有時黑白無常會以財神自居,並且在頭頂高高的帽子上寫著「一見生財」。

 

Hắc Bạch Vô Thường 


*Câu “sanh không biết kỳ, tử lại có hạn” nói lên quan điểm  nhận thức của người đời đối với việc sống chết. Còn đối với hai vị “Hắc Bạch Vô Thường” thì ai ai cũng sợ hãi, cho là hai con quỷ hại người. Ấn tượng của thế gian là, Hắc vô thường là mặc áo đen, Bạch vô thường là mặc áo trắng. Một hôm nào lỡ gặp hai vị nầy thì có nghĩa là số mạng đình chỉ !


Nhưng có số sách vở nói rằng, đừng nên sợ hãi khi gặp hai vị Hắc Bạch nầy, lúc đó chỉ cần bình tỉnh, thành tâm cầu bái và xin hai vị cho mình “bất cứ món đồ gì”, nhất định về sau sẽ “đại phú quí” ! Cho nên,  trên bàn thờ của một số đoàn hát kịch ở một vài địa phương có thờ  hai vị Hắc Bạch Vô Thường  chung với Thần Tài, mà chiếc mão trên đầu hai vị có ghi câu “Nhất kiến sinh tài” (một lần thấy ta ắt có tiền).

 

 

 

Số lượt xem : 404