Phụ Lục một số ấn chứng về Huyền Quan
Sư Đạo Tế người Thiên Thai, là con cháu phò mã họ Lý, cha là Mậu Xuân. Mẹ là Vương Thị nằm mộng thấy nuốt mặt trời sinh ra sư.
Thiền sư Tế Điên Đạo Tế (1140-1209)
Năm 18 tuổi đến chùa Linh Ẩn theo Vĩnh Công ở Hạt Đường xuất gia, học tập tham thiền, đắc được yếu chỉ, thông qua sự mài giũa không ngừng của Huệ Viễn Thiền Sư, một đêm nọ trong tâm hoắt nhiên có chỗ lãnh ngộ, phát cuồng nhảy cẩng lên, được Huệ Viễn Thiền Sư ấn chứng, có 4 câu thơ rằng :
昨夜三更月正明,“ Tạc dạ tam canh nguyệt chánh minh,
有人曉得點頭燈; hữu nhân hiểu đắc điểm đầu đăng;
驀然思起當時事, mạch nhiên tư khởi đương thời sự,
大道方知一坦平。 đại đạo phương tri nhất thản bình ”
Tạm dịch :
Canh ba đêm qua trăng đang sáng,
có người hiểu biết điểm đầu đăng,
đột nhiên nhớ lại chuyện xưa cũ,
đại đạo mới biết một bằng phẳng ”
Sau khi sư nhập diệt, có một vị tăng gặp sư dưới chân tháp Lục Hòa, trong thư gởi về có đính kèm một bài thơ như sau :
“ 憶昔面前當一箭。 Ức tích diện tiền đương nhất tiễn
至今猶覺骨毛寒。 Chí kim do giác cốt mao hàn
只因面目無人識。 Chỉ nhân diện mục vô nhân thức
又往天臺走一番。 Hựu vãng Thiên Thai tẩu nhất phiên.
Nhớ mũi tên xưa xước cả mày
Nay còn cảm thấy lạnh rờn tai
Chẳng hay mặt thật không người biết
Lại đến Thiên Thai thử một ngà
Tạm dịch :
Còn nhớ xưa bị mũi tên trước mặt,
đến nay vẫn cảm thấy rụng rời.
Chỉ do diện mục chẳng người biết ”.
Lại đến Thiên Thai đi một phen.
Về sau đến núi Thiên Thai thấy ghi sư là một trong 500 vị ứng chân (A la hán) tại đây.
Thiền sư
Viên Thông Minh Quảng
Sư họ Cao, người thuộc huyện Hùng, người cha tính khí dũng cảm, mẹ họ Mạnh, mộng thấy một ngọn đèn vào bụng, tỉnh dậy, sau mang thai sinh ra sư. Từ thơ ấu sư đã hâm mộ việc xuất gia. Đến năm 18 tuổi, cha mẹ lần lượt qua đời, sư liền xuống tóc, tham vấn sư Minh Ba, hỏi: “ Khuôn mặt trước khi cha mẹ sinh thì như thế nào? ”. Sư Ba đánh cho, rồi hỏi: “Rõ chưa?”. Đáp: “Không rõ”. Sư Ba nói: “Qua tham đường, kiết già bảy kiểu theo pháp Tây Trúc”. Đến ngày thứ tư, vào lúc canh năm, trong lòng bỗng an nhiên, sư nói kệ:
三世諸佛坐底牢。Tam thế chư phật tọa để lao.
一條鼻孔透九宵。Nhất điều tị khổng thấu cửu tiêu.
從今看破娘生面。Tòng kim khán phá nương sanh diện.
普天匝地任逍遙。Phổ thiên táp địa nhậm tiêu diêu.
Việt dịch :
“ Ba đời chư Phật toạ ( ngồi ) đáy lao.
Lỗ mũi thấu lên cõi tối cao.
Mặt mẹ chưa sinh nay thấu tỏ.
Khắp vòng trời đất mặc tiêu dao ”.
( Chú thích : lao ở đây nghĩa là lao ngục )
Sư Ba đến hỏi, và ấn chứng. Sư soạn Ngữ Lục lưu hành.
贊曰
破諸佛牢 放百斤擔 地獄天堂 如游園觀
龜毛拈得 不妨快便 迸出日輪 河清海晏
Tán viết
phá chư phật lao,phóng bách cân đảm, địa ngục thiên đường, như du viên quán, quy mao niêm đắc, bất phương khoái tiện, bính xuất nhật luân, hà thanh hải yến.
Bài tán:
Phá ngục chư Phật,
buông gánh trăm cân
Thiên đường địa ngục,
như đi tham quan,
lấy được lông rùa
chẳng ngại nhanh tiện
mặt trời bừng hiện
Biển lặng, sông trong.
Ngày 7 tháng 3 năm 1985, Tuyên Công Thượng Nhân viết:
父性果敢母夢燈 幼慕修道長出塵
波公鉗鎚弱無力 佛祖牢獄皺眉峰
胸中豁然煩惱破 頂門眼開菩提成
通達事理超三界 自在逍遙了死生
Phụ tính quả cảm mẫu mộng đăng
ấu mộ tu đạo trưởng xuất trần
ba công kiềm chùy nhược vô lực
phật tổ lao ngục trứu mi phong
hung trung hoát nhiên phiền não phá
đính môn nhãn khai bồ đề thành
thông đạt sự lí siêu tam giới
tự tại tiêu diêu liễu tử sanh
Bài kệ:
Cha tính dũng cảm, mẹ mộng đèn
Mộ đạo từ nhỏ, lớn xuất trần
Ba Công kìm nện, yếu chẳng sức
Ngục lao, Phật tổ đỉnh mày nhăn
giữa ngực hoắt nhiên tan phiền não
đính môn nhãn ( mắt trên trán ) mở đạo tựu thành
thông đạt sự lý siêu tam giới
Tự tại thong dong dứt tử sanh.
Số lượt xem : 1397